đường từ sân bay tới các thành phố và các khu du lịch; đầu tư xây dựng đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống biển bảo, chỉ dẫn giao thông và du lịch; cải thiện chất lượng kết cấu hạ tầng giao thông tại các cửa khẩu; nâng cấp, mở rộng các tuyến đường huyết mạch như quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh và nâng cấp, xây dựng mới các uyến đường tới các trung tâm du lịch lớn là hết sức cần thiết.
+ Đẩy nhanh quy hoạch, đầu tư xây dựng hệ thống điểm dừng chân dọc các tuyến quốc lộ, thực hiện xếp hạng điểm dừng chân hàng năm.
- Đổi mới, hoàn thiện chính sách tài chính và thuế áp dụng đối với hoạt động du lịch và lữ hành
+ Bộ Tài chính nghiên cứu giảm thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp lữ hành xuống dưới 10% (chỉ nên 5-6%); điều chỉnh mức giá điện nước, thuế đất hợp lí phù hợp với tính đặc thù của ngành kinh tế dịch vụ; thực hiện chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch, chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với phương tiện vận chuyển khách du lịch đường bộ cao cấp từ 24 chỗ ngồi trở lên.
+ Nghiên cứu thành lập ngân hàng đầu tư phát triển du lịch và quỹ phát triển ngành du lịch; tập trung đầu tư, mở rộng và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng trên toàn quốc, đặc biệt là tại các đô thị, trung tâm du lịch, các điểm du lịch lớn; thúc đẩy thanh toán các sản phẩm, dịch vụ du lịch thông qua hệ thống lưu thông séc/hối phiếu, thẻ tín dụng và hệ thống thanh toán thay thế thanh toán bằng tiền mặt.
- khuyến khích, hỗ trợ phát triển, đa dạng hoá sản phẩm, loại hình du lịch và tăng cường liên kết trong hoạt động du lịch và lữ hành: Nhà nước nghiên cứu ban hành chính sách khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp lữ hành quốc tế tổ chức các loại hình du lịch mạo hiểm, du lịch sinh thái tại các địa phương có địa hình thích hợp và thế mạnh về thiên nhiên.
- Đổi mới, hoàn thiện công tác tổ chức quản lí hoạt động lữ hành đáp ứng yêu cầu mới của quá trình hội nhập quốc tế: Chúng ta cần tách bạch hoàn toàn chức năng quản lí hành chính Nhà nước và chức năng kinh doanh trong hoạt động lữ hành; xoá bỏ cơ chế doanh nghiệp trực thuộc; đẩy nhanh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức đoàn thể hoạt động du lịch, xoá bỏ cơ chế chủ quản.
1.2. Xây dựng chiến lược cạnh tranh du lịch Quốc gia nhằm tạo thương hiệu cho du lịch
Để du lịch Việt Nam phát triển sau gia nhập WTO, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chương trình hành động ngành Du lịch sau khi Việt Nam gia nhập WTO giai đoạn 2007-2012. Theo đó, mục tiêu chung của Chương trình là xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan quản lí Nhà nước về du lịch ở TW và địa phương, của doanh nghiệp du lịch nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, đưa du lịch nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh, mạnh và bền vững, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu đã đề ra trong Chiến lược Phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 - 1010. Tuy nhiên, phát triển du lịch cần phải gắn với việc xây dựng và phát triển thương hiệu du lịch quốc gia. Tạo thương hiệu quốc gia là đưa hình ảnh của đất nước rộng rãi đến với mọi người, họ là những nhà đầu tư, khách du lịch và người tiêu dùng toàn cầu.
Nhà nước cần xây dựng chiến lược cạnh tranh du lịch quốc gia nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến; sớm tập trung xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Hiện tại, Tổng Cục Du lịch đang triển khai chương tạo dựng thương hiệu cho các doanh nghiệp. Tiếp đó, ngành cũng tiến hành tìm kiếm chọn những sản phẩm tiêu biểu của doanh nghiệp, địa phương để cùng doanh nghiệp xây dựng thương hiệu du lịch, quảng bá hình ảnh du lịch quốc gia. Thương hiệu du lịch Việt Nam cần hội tụ 3 yếu tố: chất lượng, năng động và sự sáng tạo. Các doanh nghiệp có thương hiệu sẽ được Nhà nước hỗ trợ về mặt xây dựng chiến lược quảng bá phát triển thương hiệu, bảo vệ thương hiệu, hỗ trợ thông tin du lịch. Việc xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia sẽ tạo thêm lực cạnh tranh trên thị trường du lịch trong nước và quốc tế trong thời kì hội nhập.
Có thể bạn quan tâm!
- Chính Sách Nhà Nước Chưa Mang Tính Đột Phá Trong Việc Phát Triển Du Lịch
- Giải Pháp Phát Triển Của Ngành Du Lịch Việt Nam Đáp Ứng Yêu Cầu Của Hội Nhập
- Chú Trọng Đặc Biệt Đến Việc Quảng Bá Du Lịch
- Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du lịch Việt Nam - 14
- Tác động của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành dịch vụ du lịch Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Việc xây dựng thương hiệu cho du lịch sẽ góp phần gia tăng lượng khách đến và lượng khách quay trở lại Việt Nam. Chiến lược xây dựng thương hiệu cạnh tranh quốc gia sẽ tạo ra “một hình tượng du lịch” có sức hấp dẫn. Hình tượng du lịch nên là một bộ mặt mới mẻ, có cá tính riêng của khu du lịch, dễ để lại ấn tượng trong trí nhớ của mọi người. Ngành du lịch Việt Nam có thể thành công thông qua các phương pháp lợi dụng tốt nhất nguồn tài nguyên và nét đặc sắc của khu du lịch;
sử dụng những quy hoạch phản ánh được bối cảnh và nét đặc sắc về khí hậu của địa phương đồng thời sử dụng nguồn nguyên liệu của địa phương; đưa ra những xử lí giàu tính tưởng tượng cho các công trình, phản ánh được thuộc tính của điểm tham qua và khí hậu; đem lại những cơ hội tiếp xúc với phong tục tập quán, các mặt hàng thủ công Hoa Kì nghệ và cuộc sống của cư dân địa phương; đưa vào những thuộc tính đặc biệt, tạo nên bầu không khí mới. Đặc biệt, nền văn hoá truyền thống đa sắc hội tụ những nét văn hoá đặc trưng cộng với cảnh quan thiên nhiên phong phú sẽ góp phần đáng kể vào việc xây dựng thương hiệu du lịch.
1.3. Hoàn thiện việc phân cấp quản lí Nhà nước về du lịch ở Trung Ương và địa phương
1.3.1. Quản lí Nhà nước về du lịch ở Trung ương
Thực hiện chức năng quản lí vĩ mô của Nhà nước về du lịch cần thiết phải có sự phân cấp quản lí giữa Nhà nước trung ương và địa phương. Sự khác biệt ở đây là phạm vi. Do vậy, quản lí Nhà nước ở cấp Trung ương trước hết tập trung quản lí vào các vấn đề có liên quan đến toàn bộ việc phát triển du lịch của cả nước trên mọi lĩnh vực của ngành du lịch như: lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của quốc gia, ban hành các chính sách chung cho toàn ngành du lịch, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan đến phát triển du lịch chung của cả nước như: Giao thông vận tải, Thông tin liên lạc, hàng không, hải quan, Nội vụ, Thương mại, Giáo dục - Đào tạo, Văn hoá, Công nghệ môi trường…
1.3.2. Quản lí Nhà nước ở địa phương
Quản lí Nhà nước về du lịch ở địa phương (Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) thực hiện ở các mặt chính sau:
- Xây dựng các đề án về quy hoạch và kế hoạch ot điều kiện trên địa bàn;
- Nghiên cứu đề xuất việc xây dựng các chính sách, bổ dung và cụ thể hoá các chính sách chung, phù hợp với tình hình hoạt động du lịch của địa phương;
- Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chính sách theo quy định và nghiệp vụ chuyên môn;
- Theo phân cấp, xét cấp giấy chứng nhận, đăng kí, kinh doanh của các doanh nghiệp hoạt động du lịch;
- Giúp đỡ tổ chức đào tạo các cán bộ nghiệp vụ, chuyên môn cho các doanh nghiệp du lịch, khách sạn, dịch vụ…
Để công việc quản lí Nhà nước về du lịch ở địa phương thực sự quán trio quan điểm kinh tế nhiều thành phần thì quản lí Nhà nước về du lịch ở địa phương cần khắc phục thói tquen chỉ quản lí vĩ mô đối với doanh nghiệp Nhà nước thuộc địa phương quản lí, mà pảhi tổ chức quản lí vĩ mô với toàn bộ hoạt động kinh doanh du lịch thuộc mọi tổ chức và mọi thành phần kinh tế ở trên địa bàn của địa phương.
2. Nhóm giải pháp về phía ngành dịch vụ du lịch
2.1. Tổ chức công tác lữ hành, coi trọng du lịch trong nước
Hiện tại, du lịch Việt Nam mới chỉ tập trung vào du lịch quốc tế. Để phát triển một cách vững chắc phải đồng thời phát triển du lịch trong nước. Khách du lịch trong nước đang tăng lên về số lượng từng năm và mở rộng đối với thế giới hơn do điều kiện kinh tế phát triển. Số lượng doanh nghiệp du lịch nội địa nhiều hơn số doanh nghiệp quốc tế nhưng do chỉ quan tâm đến chương trình tham quan nên hiệu quả kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng. Mặt khác, đội ngũ cán bộ công chức lao động trong các hoạt động nghiệp vụ, năng lực thường thua kém so với đội ngũ hoạt động trong các doanh nghiệp du lịch quốc tế. Các hoạt động tiếp thị, xúc tiến cho du lịch trong nước cũng thiếu kế hoạch, thiếu đồng bộ giữa các địa phương, doanh nghiệp du lịch trong cả nước. Ngay cả một bộ phận dân cư tham gia vào các dịch vụ du lịch cũng ít mặn mà với khách nội địa mà thường chú ý đến khách quốc tế. Trong quy hoạch tổng thể về du lịch và quy hoạch du lịch ở các địa phương, định hướng phát triển các khu du lịch, các điểm du lịch thường được hoạch định cho khách quốc tế hơn là khách trong nước.
Để phát triển du lịch trong nước, khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch Việt Nam, tránh hụt hẫng khi có biến động về chính trị, an ninh hay dịch bệnh quốc tế, Tổng Cục Du lịch Việt Nam cần xây dựng chiến lược tiếp thị, quảng bá du lịch với thị trường khách nội địa. Hoạt động này sẽ có tác động tích cực, tạo ra sức hấp dẫn du lịch với khách du lịch nội địa. Ngành du lịch cần tránh tình trạng nhiều đoàn khách du lịch trong nước tự tổ chức tour nhằm hướng đến sự giản đơn và giá rẻ. Hơn nữa, Tổng Cục Du lịch cần định hướng cho doanh nghiệp du lịch trong cả nước
với sự hoạch định có tính chiến lược của ngành cần có kế hoạch tác nghiệp cụ thể và căn cứ vào năng lực của mình mà tổ chức kinh doanh du lịch trong nước, coi loại hình này là một trong hai loại hình cơ bản, lâu dài chứ không chỉ tập trung vào lữ hành quốc tế như trước đó.
2.2. Tăng cường xúc tiến, quảng bá du lịch
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường, tuyên truyền quảng cáo về điều kiện: Việt Nam có nhiều điểm du lịch đẹp, nhưng người nước ngoài ít biết đến vì tuyền truyên quảng cáo còn ít, thiếu chuyên nghiệp và kém hiệu quả, quảng cáo tuyên truyền không tương xứng với sự phát triển của sản phẩm du lịch. Một số du khách đến nước ta họ tỏ ra ngỡ ngàng vì sự đổi mới nhanh chóng của Việt Nam, do họ chỉ đọc cuốn sách Việt Nam cachs đây nhiều năm. Rõ ràng việc quảng cáo tuyên truyền của ta chưa vươn rộng tới thị trường lớn trên thế giới. Nguyên nhân chính của yếu kém này là do điều kiện kinh phí bị hạn hẹp. Song, không phần quan trọng là do các công ty lữ hành chưa nhận thức được đầy đủ vị trí và tác dụng của việc tuyên truyền, quảng bá trong sự nghiệp phát triển du lịch, nên nhiều doanh nghiệp lữ hành khó khăn trong hạch toán, cắt giảm phần quảng bá, tuyên truyền tới mức thấp nhất. Một chu trình luẩn quẩn: quảng bá tuyên truyền kém - khách ít - thu nhập thấp - cắt giảm quảng cáo tuyên truyền - quảng bá tuyên truyền kém.
Chúng ta cần chủ động đặt các văn phòng đại diện ở trong nước và nước ngoài, để tiếp xúc trực tiếp với nguồn khách du lịch tại chỗ: Mở các phòng thông tin du lịch tại các sân bay quốc tế tại Việt Nam nhằm cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và nhanh nhất cho du khách khi bắt đầu đặt chân lên Việt Nam. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các Đại sứ quán ta ở nước ngoài, Đại sứ quán nước ngoài ở Việt Nam, các hãng hàng không, các hãng thông tấn báo chí, phối hợp trong quảng bá, xúc tiến du lịch Việt Nam ra nước ngoài. Hiện tại VNAT có các văn phòng đại diện tại Nhật Bản, Pháp, Hoa Kì, Đức, Singapore và Australia. Ví dụ ngay như thị trường Nhật là một trong những thị trường lớn nhất của Việt Nam nhưng vẫn chưa hề có một văn phòng đại diện du lịch nào ở đây.
Trong xu thế toàn cầu hoá mạnh mẽ vào thế kỉ XXI việc quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng có quan hệ chặt chẽ với du lịch: máy tính, máy fax,
video, hệ thống Intenet và nhiều thứ kết hợp trong Multimedia (truyền thông đa phương tiện) cũng tích cực tương hỗ, phối hợp, cộng tác hiệu quả cho du lịch nói chung và quảng cáo nói riêng.
Xây dựng và xúc tiến hình ảnh du lịch Việt Nam để xác định vị thế du lịch Việt Nam trên thị trường du lịch thế giới. Các nước có nền du lịch phát triển đều chú trọng và tạo lập được hình ảnh rõ ràng về du lịch của đất nước họ ở nước ngoài. Tổng Cục Du lịch Việt Nam cần tổ chức các cuộc thi lựa chọn thị trường khẩu hiệu quảng bá du lịch cho từng thời kì nhất định, xây dựng hình ảnh, ấn phẩm quảng bá du lịch với nội dung và chất lượng cao…
Tham gia hội chợ, hội thảo, diễn đàn du lịch quốc tế, các tổ chức quốc tế và khu vực. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhân viên marketing xúc tiến du lịch.
Nước ta cần đẩy mạnh quảng bá du lịch ra thị trường nước ngoài. Tổng Cục Du lịch du lịch có kế hoạch sẽ tham gia 11 hội chợ triển lãm du lịch quốc tế Đức, Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Hoa Kì, Malaysia để quảng bá du lịch nước nhà. Trong đó sẽ tập trung vào những thị trường quan trọng như Đức, Nga và HOA Kì. Hơn nữa, Tổng Cục Du lịch cũng mời các nhà làm phim về du lịch nước ta.
Và trong năm nay, ước tính sẽ có khoảng 11 phim làm về du lịch nước ta với các chủ đề nông thôn.
2.3. Phát triển nguồn nhân lực
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề có tính chiến lược của mọi quốc gia. Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là vấn đề có ý nghĩa đối với nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch, góp phần nhanh chóng đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Nguồn nhân lực phải được phát triển một cách có hệ thống cả về số lượng và chất lượng.
Trước hết, cần phải có sự phối kết hợp mang tính liên thông giữa các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch hiện nay. Sự phối kết hợp này nhằm vào việc tổ chức các
hội thảo khoa học để thống nhất chương trình, nội dung các môn học đòi hỏi ở bất cứ một cán bộ, nhân viên tương lai của ngành du lịch cần được trang bị kiến thức. Chúng ta có thể bắt đầu từ sự phối kết hợp tại các trung tâm đào tạo lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng để tiến tới phối hợp, thống nhất trong toàn quốc.
Các cơ sở đào tạo nhân lực nên đề nghị các doanh nghiệp du lịch, dù là quốc doanh, liên doanh hay tư nhân hợp tác trong việc tạo điều kiện cho hoạt động phục vụ thực tế của sinh viên du lịch. Việc tạo điều kiện cho sinh viên thực tập tạo các doanh nghiệp du lịch lớn, có uy tín trong và ngoài ngành là một trong những điều kiện quan trọng, giúp sinh viên trưởng thành, bổ khuyết những thiếu hụt từ lí thuyết trên giảng đường. Những khó khăn từ phía các doanh nghiệp du lịch hiện nay không phải nhỏ, do nhiều nguyên nhân. Song sự phối hợp tạo điều kiện cho sinh viên thực tập là có thể thực hiện được.
Thứ hai, đầu tư mở rộng quy mô các cơ sở đào tạo cũ, xây dựng cơ sở đào tạo mới, để trong một thời gian vừa đào tạo bồi dưỡng được số lượng cán bộ công nhân nhiều hơn, vừa tăng chất lượng đội ngũ chuyên ngành du lịch. Chúng ta có thể xây dựng một số trường du lịch theo mô hình “trường - khách” ở một số vùng du lịch trọng điểm, đây là kinh nghiệm rất quý báu của Thuỵ Sĩ. Bồi dưỡng mới, đáp ứng kịp thời số lượng cán bộ, nhân viên trong quy hoạch, tăng cường đội ngũ giảng viên, đa dạng hoá các loại hình đào tạo và xã hội hoá công tác đào tạo, bồi dưỡng về du lịch. Trong điều kiện các trường công còn ít, nên khuyến khích hỗ trợ việc thành lập các trường dạy nghề du lịch dân lập và tư thục. Trong tương lai, chúng ta cần xây dựng chương trình đào tạo theo một quy trình như các nước tiên tiến về du lịch, nghĩa là theo một quy trình như các nước tiên tiến về du lịch, nghĩa là đào tạo bậc cao chuyên ngành.
Thứ ba, ngành Du lịch Việt Nam nên tăng cường hợp tác phát triển nguồn nhân lực du lịch với các tổ chức quốc tế. Trong Chương trình hợp tác EC - ASEAN , Du lịch Việt Nam đã tranh thủ hỗ trợ chương trình tổ chức một khoá học đào tạo về áp dụng tiêu chuẩn ISO 18531, ISO 9000 và cấp học bổng cho 10 cán bộ du lịch Việt Nam dự các khoá bồi dưỡng về tiêu chuẩn trong du lịch tại Thái Lan, Philippines, Indonesia. Thông
qua Trung tâm ASEAN - Nhật Bản (AJC), trong khuôn khổ hợp tác ASEAN - Nhật Bản, Du lịch Việt Nam cùng các thành viên ASEAN tiếp tục tranh thủ hỗ trợ của Chính phủ Nhật Bản tổ chức các sự kiện quảng bá giới thiệu văn hoá, du lịch Việt Nam tới thị trường nguồn khách quan trọng Nhật Bản. Đồng thời tổ chức các khoá học ngắn hạn dưới hình thức Hội thảo giới thiệu về thị trường Nhật Bản và bồi dưỡng tiếng Nhật cho đội ngũ hướng dẫn viên du lịch. Tổng Cục Du lịch Du lịch Việt Nam vừa phối hợp với Uỷ Ban châu Âu tổ chức buổi giới thiệu dự án Phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam do EU tài trợ. Theo đó, dự án đào tạo các kĩ năng cho 13 ngành nghề ở trình độ cơ bản thuộc hai lĩnh vực lữ hành và khách sạn. Trong 2 năm từ 2004 - 2008 thông qua khoảng 200 khoá học đào tạo, sẽ có khoảng hơn 2.500 cán bộ giám sát và giáo việc được đào tạo để tập huấn các kĩ năng nghề cho các lao động làm việc trong ngành khách sạn và lữ hành. Ngân sách dành cho dự án là 12 triệu euro.
3. Nhóm giải pháp đối với với các công ty cung cấp dịch vụ du lịch
3.1. Đa dạng hóa sản phẩm, loại hình du lịch
- Khai thác và phát triển du lịch MICE
Ở Việt Nam, gần đây loại hình du lịch MICE đang mở rộng và là một thị trường tiềm năng được các doanh nghiệp lữ hành và khách sạn quan tâm khai thác. Du lịch MICE đem lại hiệu quả cao nhờ lượng khách đông, tập trung và có mức chi tiêu cao. So với các đối tượng du khách khá, đây là khách hạng sang, chi tiêu nhiều, sử dụng các dịch vụ cao cấp và thời gian lưu trú dài ngày.
Ngoài lợi ích cho ngành du lịch, MICE còn tác động tới nhiều ngành kinh tế khác, bởi có đặc thù là sản phẩm tổng hợp của các sản phẩm du lịch đơn lẻ kết hợp tổ chức các sự kiện trên cơ sở yêu cầu phát triển cơ sở hạ tầng. Những chương trình du lịch MICE thường có sự tham gia của các chính khách, doanh nhân, nghệ sĩ, đây là cơ hội quảng bá tiếp thị tốt nhất cho điểm đến du lịch. Theo đánh giá của các chuyên gia, MICE là loại hình có bước tăng trưởng cao và sẽ là một trong những nguồn khách chính của hoạt động du lịch.
Loại hình du lịch MICE chính thức xuất hiện tại Việt Nam từ năm 1990 và đã có bước phát triển nhanh chóng. Đối tượng khách đến Việt Nam khá phong phú, không chỉ là khách quốc tế, các tập đoàn, công ty liên doanh đang hoạt động tại Việt