Phạm vi nghiên cứu | Biến | Phương pháp nghiên cứu | Kết quả | |
nghèo ở mức 1.9USD/ngày và 3.1USD/ngày | ||||
Vũ Thuỳ Dương (2019) | - 28-30 các quốc gia đang phát triển - Khung thời gian: 2004- 2011 - Số quan sát: 141-143 |
De jure: Kaopen De facto: dòng vốn vào FDI và dòng vốn ra FDI - Đói nghèo: Nghèo tuyệt đối: ngưỡng đói nghèo mức 1.25USD/ngày, 2USD/ngày, khoảng cách đói nghèo ở ngưỡng 1.25USD/ngày, 2USD/ngày Nghèo tương đối: Phần thu nhập của 10% và 20% dân số nghèo nhất | - Phương pháp moment tổng quát (GMM) để giải quyết vấn đề tác động cố định và nội sinh | - Hội nhập tài chính khi đo bằng Kaopen có tác động giảm số lượng nghèo, nhưng nó tác động đến những người cực nghèo ở mức độ yếu -Chỉ số hội nhập tài chính de facto không có ý nghĩa thống kê |
Có thể bạn quan tâm!
- Tác động của hội nhập tài chính lên đói nghèo của các nước đang phát triển khu vực châu Á - 2
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Lý Thuyết Về Tác Động Của Hội Nhập Tài Chính Đến Tình Trạng Đói Nghèo
- Tổng Quan Các Nghiên Cứu Thực Nghiệm Về Tác Động Của Hội Nhập Tài Chính Đến Tình Trạng Đói Nghèo
- Các Chỉ Số Đo Lường Mức Độ Hội Nhập Tài Chính
- Tác Động Của Hội Nhập Tài Chính Đến Tình Trạng Đói Nghèo
- Mức Độ Kiềm Chế Tài Chính, Tiết Kiệm Và Đầu Tư
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
1.3. Khoảng trống nghiên cứu
Trên cơ sở tiến hành tổng quan các nghiên cứu có liên quan đến đề tài, hai khoảng trống nghiên cứu được chỉ ra như sau:
Thứ nhất, về phạm vi và đối tượng nghiên cứu: Đến nay đã có các tài liệu nghiên cứu về tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo ở phạm vi cấp quốc tế nhưng chưa có nghiên cứu nào đánh giá sự tác động của 2 chỉ số này ở phạm vi các nước đang phát triển khu vực Châu Á trong giai đoạn 2005-2018. Như đã đề cập trong phần
phạm vi nghiên cứu, giai đoạn 2005-2018 là giai đoạn mà tác động của hội nhập tài chính đã được ghi nhận là rất sâu rộng đối với các nước đang phát triển trên thế giới. Mặc dù hội nhập tài chính có những tác động không mong muốn ở các nước khác nhau tùy theo các điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác nhau, song điều không thể phủ nhận là hội nhập tài chính đã góp phần làm giảm đáng kể tình trạng đói nghèo ở nhiều nước đang phát triển khu vực Châu Á. Do vậy, đây là giai đoạn có thể được lựa chọn để nghiên cứu về tác động của hội nhập tài chính đối với các nước đang phát triển khu vực Châu Á.
Thứ hai, về phương pháp nghiên cứu: Trong các nghiên cứu trước đây, có nghiên cứu đo lường hội nhập tài chính bằng chỉ số de jure (phổ biến nhất là chỉ số Kaopen) hoặc cũng có những nghiên cứu chỉ sử dụng chỉ số de facto (tổng dòng vốn vào và ra FDI so với GDP hoặc dùng tổng dòng vốn FDI, FPI và vốn vay ngân hàng) đều chưa đánh giá hội nhập tài chính một cách thật sự toàn diện. Vì vậy, luận án được kỳ vọng bổ sung, lấp đầy khoảng trống nghiên cứu bằng việc sử dụng kết hợp chỉ số de facto (tổng tài sản nước ngoài và tổng nợ nước ngoài so với GDP) với chỉ số de jure (Kaopen) để đánh giá mức độ hội nhập tài chính. Phương pháp định lượng gồm OLS gộp, FEM, REM, GMM hệ thống được áp dụng để lượng hoá tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo ở các nước đang phát triển khu vực châu Á. Cuối cùng, để phát triển các nghiên cứu trước đây, 2 biến kiểm soát tác động đến tình trạng đói nghèo được đưa vào mô hình kinh tế lượng gồm biến y tế và biến thể chế cụ thể là chỉ số đo lường ổn định chính trị, bạo lực và khủng bố tại các quốc gia.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Chương 1 của luận án đã tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về sự tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo của các nước. Các nghiên cứu lý thuyết hay thực nghiệm được công bố trong những phạm vi không gian và thời gian khác nhau nhưng đều đã chỉ ra sự tác động gián tiếp của hội nhập tài chính đến đói nghèo thông qua các kênh tăng trưởng kinh tế, khủng hoảng tài chính, phân phối thu nhập, v.v… Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo ở Châu Á. Nói cách khác, nghiên cứu về sự tác động của hội nhập tài chính đối với tình trạng đói nghèo ở phạm vi các nước đang phát triển khu vực Châu Á trong giai đoạn 2005-2018 là khoảng trống nghiên cứu hoàn toàn có thể được chọn. Về tiếp cận đánh giá mức độ hội nhập tài chính, việc sử dụng kết hợp chỉ số de facto (tổng tài sản nước ngoài và tổng nợ nước ngoài so với GDP) với chỉ số de jure (Kaopen) cũng có thể coi là một sự bổ sung cho các nghiên cứu đã công bố. Ngoài ra, để bổ sung thêm về phương pháp nghiên cứu, cả lý thuyết và thực nghiệm, luận án sẽ áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng gồm OLS gộp, FE, RE, GMM hệ thống được áp dụng để đánh giá tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo ở các nước đang phát triển khu vực châu Á.
Dựa trên nội dung đã được tổng quan ở Chương 1, Chương 2 của luận án sẽ tập trung hệ thống hoá cơ sở lý thuyết và xây dựng khung nghiên cứu về tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo của các quốc gia.
Chương 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÁC ĐỘNG CỦA HỘI NHẬP TÀI CHÍNH ĐẾN TÌNH TRẠNG ĐÓI NGHÈO CỦA CÁC QUỐC GIA
Chương 1 của luận án đã tổng quan các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm về tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo. Những bằng chứng lý thuyết và thực nghiệm không thể phủ nhận về tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo. Quan trọng hơn thế nữa, các nghiên cứu được công bố đã từng bước hình thành nền tảng lý thuyết cho vấn đề nghiên cứu. Kế thừa những thành tựu nghiên cứu đó, Chương 2 của luận án sẽ hệ thống hóa để hoàn chỉnh hơn cơ sở lý luận về hội nhập tài chính, tình trạng đói nghèo, các kênh tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo. Thêm vào đó, một số bài học kinh nghiệm về hội nhập tài chính và sự tác động đến tình trạng đói nghèo từ một số nước đang phát triển trên thế giới có thể được coi như cơ sở thực tế của vấn đề nghiên cứu.
2.1. Khái quát về hội nhập tài chính
2.1.1. Khái niệm về hội nhập tài chính
Hội nhập tài chính có thể được diễn giải một cách đơn giản nhất là sự “thâm nhập” hay sự “liên kết, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau” về mặt tài chính giữa các nước. Cơ sở hay động lực thúc đẩy hội nhập tài chính là sự phát triển của thương mại và đầu tư quốc tế. Nói một cách khác, hội nhập tài chính là một nội dung quan trọng hay là điều kiện “cần và đủ” để hội nhập kinh tế giữa các nước. Do vậy, trước khi tìm hiểu về định nghĩa hội nhập tài chính, nghiên cứu bắt đầu với khái niệm về hội nhập kinh tế. Theo Balassa (1961), hội nhập kinh tế là "việc bãi bỏ phân biệt đối xử trong một khu vực". Theo Kahnert & cộng sự (1969), hội nhập kinh tế là "quá trình loại bỏ dần những phân biệt đối xử xảy ra ở biên giới quốc gia". Hội nhập kinh tế, theo Machlup (1977) là quá trình kết hợp các nền kinh tế riêng biệt vào một vùng kinh tế lớn hơn. Machlup (1977) và Staley (1977) tiếp tục chỉ ra rằng hội nhập kinh tế liên quan đến việc "tận dụng tất cả cơ hội tiềm năng của phân công lao động hiệu quả". Theo Balasaa (1962), có năm giai đoạn hội nhập kinh tế khác nhau. Đầu tiên là khu vực Thương mại Tự do (FTA), tiếp theo là liên minh Thuế quan (CU), thị trường Chung (CM), liên minh Kinh tế và cuối cùng là liên minh Tiền tệ (MU), là đỉnh cao của hội nhập kinh tế.
Mặc dù hội nhập tài chính đã được tiến hành từ nhiều thập kỷ trước, cụ thể từ những năm 1950, song hiện nay khái niệm về hội nhập tài chính vẫn chưa thực sự thống nhất (Katarina & các cộng sự, 2021). Thuật ngữ như “toàn cầu hóa tài chính”, “tự do hoá tài chính” cũng đã được sử dụng một cách thay thế hay tương đồng với “hội nhập
tài chính”, đặc biệt là trong các công trình nghiên cứu thực nghiệm, vì mức độ của toàn cầu hoá tài chính, tự do hoá tài chính, hội nhập tài chính thường được đo lường bằng cùng một số chỉ số. Tuy nhiên, xét về mặt lý thuyết, toàn cầu hóa tài chính, tự do hoá tài chính và hội nhập tài chính là các khái niệm vẫn còn có sự khác biệt nhất định. Trong khi, toàn cầu hóa tài chính là sự liên kết hệ thống tài chính của một quốc gia với các tổ chức và thị trường tài chính quốc tế, thì tự do hoá tài chính được dùng để chỉ việc dỡ bỏ, hoặc cắt giảm các rào cản giữa các quốc gia trong quá trình lưu thông vốn. Hội nhập tài chính là quá trình mà một nền kinh tế không hạn chế các giao dịch tài chính xuyên biên giới. Ngoài ra, sự hội nhập tài chính thường đòi hỏi phải tự do hóa khu vực tài chính trong nước cũng như tự do hoá tài khoản vốn, tài khoản vãng lai, mở cửa các dịch vụ tài chính cũng như sự thâm nhập vào hệ thống tài chính quốc tế. Do đó, hội nhập tài chính diễn ra khi các nền kinh tế của một quốc gia trải qua sự gia tăng dịch chuyển vốn xuyên quốc gia, bao gồm sự tham gia tích cực của những người đi vay và cho vay trong nước trên thị trường quốc tế và các trung gian tài chính quốc tế.
Một số quan điểm khác nhau về hội nhập tài chính được sử dụng nhiều nhất bao gồm như sau: Thứ nhất, hội nhập tài chính là quá trình thông qua đó thị trường tài chính của hai hoặc nhiều quốc gia hoặc khu vực kết nối với nhau chặt chẽ hơn. Quá trình này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm sự di chuyển dòng vốn xuyên biên giới (như là việc các công ty huy động vốn trên thị trường vốn xuyên biên giới), sự tham gia của nước ngoài vào thị trường trong nước (sự gia nhập của ngân hàng nước ngoài vào thị trường ngân hàng/tài chính trong nước), sự chia sẻ thông tin và thông lệ giữa các định chế tài chính, hoặc sự thống nhất của cơ sở hạ tầng thị trường tài chính. Hội nhập tài chính có thể có quy mô khu vực hoặc toàn cầu, tùy thuộc vào mức độ kết nối của thị trường tài chính của một quốc gia với các quốc gia láng giềng hay với các trung tâm/định chế tài chính toàn cầu (IMF, 2008). Quan điểm này tương đối đầy đủ khi đề cập đến các nội dung và quy mô của hội nhập tài chính. Tuy nhiên, quan điểm vẫn còn hạn chế khi chưa chỉ ra điều kiện của hội nhập tài chính đó là việc cải cách hệ thống tài chính trong nước và gỡ bỏ các hạn chế cho các dòng vốn xuyên biên giới.
Thứ hai, Brouwer (2005) cho rằng hội nhập tài chính là quá trình mà thị trường tài chính trong một nền kinh tế liên kết chặt chẽ hơn với những thị trường tài chính của nền kinh tế khác. Dòng vốn trên các thị trường tài chính có sự thâm nhập, di chuyển qua lại và phụ thuộc lẫn nhau chặt chẽ do có sự gỡ bỏ các rào cản. Điều này hàm ý sự gia tăng dòng vốn và xu hướng giá và lợi nhuận trên tài sản giao dịch tài chính ở các quốc gia khác nhau tương tự nhau. Giống với quan niệm thứ nhất, quan niệm của Brouwer (2005) đề cập đến sự liên kết chặt chẽ của các thị trường tài chính. Tuy nhiên, quan niệm
thứ hai này đã nhấn mạnh vào nội dung hội nhập tài chính là sự thâm nhập của các dòng vốn do có sự gỡ bỏ các hạn chế trên thị trường tài chính và đây có thể coi là điều quan trọng nhất của quá trình hội nhập tài chính. Vì vậy, về bản chất, quan niệm thứ hai này tốt hơn quan niệm thứ nhất.
Trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm trên, quan điểm về hội nhập tài chính được sử dụng trong luận án này là: (1) sự tự do di chuyển của các dòng vốn và mở cửa dịch vụ tài chính trên cơ sở loại bỏ các hạn chế của mỗi nước; (2) sự thống nhất về các quy định đối các hoạt động tài chính nhằm đạt được sự liên kết hoàn toàn về thị trường tài chính, thuế và các vấn đề liên quan giữa các nền kinh tế thành viên. Quan điểm này thể hiện sự liên kết, hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau của các thị trường tài chính giữa các nước và sự tự do hoá các dòng vốn xuyên biên giới nhằm tạo điều kiện cho các cơ hội đầu tư và nhận đầu tư của các chủ thể trong nền kinh tế từ cấp độ cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp đến nhà nước.
2.1.2. Lộ trình hội nhập tài chính
Hội nhập tài chính được tiến hành trên cơ sở tự do hóa thương mại. Hội nhập tài chính có mối quan hệ rất chặt chẽ với tự do hoá tài chính. Quá trình hội nhập tài chính không thể xảy ra nếu không có tự do hoá tài chính. Tuỳ vào mục tiêu và điều kiện của từng quốc gia, lộ trình hội nhập tài chính có thể thực hiện một cách khác nhau. Thông thường, quá trình này trải qua những bước sau:
Bước 1: cải tiến và hiện đại hoá hệ thống ngân hàng thương mại trong nước, đây là điều kiện tiền đề để phát triển cơ sở hạ tầng trên thị trường tài chính.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Các ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tích lũy các khoản tiết kiệm nhàn rỗi của người dân và sẵn sàng tham gia các hoạt động đầu tư, tín dụng. Với sự đóng góp các dịch vụ của các ngân hàng thương mại, các giao dịch thương mại trong và ngoài nước diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều. Các ngân hàng thương mại giúp tăng cường khả năng lưu động của dòng vốn trong nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng thương mại của một quốc gia hoạt động hiệu lực, hiệu quả và có kỷ luật sẽ mang lại sự tăng trưởng nhanh chóng trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
Bước 2: tự do hoá hoàn toàn lãi suất và thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết:
- Tự do hoá lãi suất là một phần quan trọng của hội nhập tài chính, bản chất của sự tự do hoá lãi suất chính là cơ chế điều hành trong đó lãi suất hoàn toàn được xác định bởi cung cầu vốn trên thị trường. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp bằng các công cụ
để điều hành theo định hướng thị trường. Hay nói theo cách khác, đây chính là bước nhà nước gỡ bỏ tài chính kiềm chế trong nước. Tài chính kiềm chế gây ra không ít những hạn chế về tăng trưởng kinh tế cũng như sự mất ổn định kinh tế vĩ mô vì hệ thống tài chính không được phát triển và không thể thực hiện được những chức năng trong việc điều tiết và tạo vốn thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ngoài ra, ngân sách nhà nước luôn phải bao cấp và thường xuyên ở trong tình trạng thiếu hụt vì các doanh nghiệp nhà nước luôn được ưu tiên vay vốn với lãi suất ưu đãi dẫn tới luôn có tâm lý phụ thuộc, không sản xuất và kinh doanh có hiệu quả.
- Tự do hoá lãi suất gắn liền với cải cách cơ cấu, bao gồm: Cơ cấu lại các khoản nợ khó đòi, tiến hành tư nhân hoá một số ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, áp dụng các chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh trong khu vực ngân hàng.
- Trong tiến trình hội nhập tài chính, chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết cần được áp dụng để thích ứng và tạo ra động lực phát triển nền kinh tế của quốc gia. Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết là chế độ, trong đó, NHTW tiến hành can thiệp tích cực trên thị trường ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá biến động trong một vùng nhất định.
Bước 3: Tự do hoá khu vực ngân hàng thương mại (sự gia nhập ngân hàng nước ngoài vào trong nước) và thị trường chứng khoán:
- Sự gia nhập của các ngân hàng nước ngoài vào trong một quốc gia sẽ mang lại những lợi ích như sau: Một là, sự gia nhập của ngân hàng nước ngoài làm tăng hiệu quả của khu vực ngân hàng trong nước. Hai là, cạnh tranh gia tăng có xu hướng làm giảm chi phí và tăng lợi nhuận. Ba là, việc phân bổ các khoản tín dụng cho khu vực tư nhân có thể được cải thiện. Điều này có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng cao hơn (Levine, 1996). Bốn là, sự hiện diện của các ngân hàng thương mại nước ngoài thúc đẩy việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và giám sát ngân hàng thương mại trong nước, đồng thời nâng cao sự minh bạch tổng thể. Bên cạnh các lợi ích, việc gia nhập ngân hàng nước ngoài mang lại các chi phí như sau: (1) với các dịch vụ và sản phẩm cao cấp hơn, các ngân hàng nước ngoài chiếm lợi thế trên thị trường trong nước về những lĩnh vực ít rủi ro hơn, trong khi đó, các lĩnh vực rủi ro hơn sẽ được thực hiện kinh doanh bởi các ngân hàng thương mại trong nước; (2) các ngân hàng nước ngoài có thể tăng cường sự bất ổn của hệ thống tài chính do rút vốn khỏi nước sở tại; (3) do các ngân hàng nước ngoài có các ưu tiên và mục tiêu kinh doanh phục vụ lợi ích riêng, nên mô hình cho vay của họ có xu hướng bỏ qua các ưu tiên trong nước vì những ưu tiên đó không mang lại nhiều lợi ích cho các ngân hàng thương mại nước ngoài.
- Tự do hóa thị trường chứng khoán là quyết định của một quốc gia nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài cơ hội đầu tư vào thị trường chứng khoán trong nước
và các nhà đầu tư trong nước có quyền giao dịch trên thị trường chứng khoán nước ngoài, là một nội dung của tự do hoá tài khoản vốn vì các hạn chế đối với dòng vốn vào và ra được loại bỏ. Tự do hoá thị trường chứng khoán tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng đầu tư tư nhân (Henry, 2000; Bekaert & cộng sự, 2003, 2005). Ngoài ra, phát triển thị trường chứng khoán thúc đẩy sự gia tăng vốn hóa thị trường và tính thanh khoản. Tuy nhiên, vốn quốc tế có tính chu kỳ, cùng với thị trường vốn chưa hoàn thiện với khuôn khổ thể chế và quy định yếu kém đã gây ra nhiều cuộc khủng hoảng ở các thị trường mới nổi kể từ những năm 1980 (Prasad & các cộng sự, 2003).
- Tự do hoá các dịch vụ tài chính: Tự do hoá các dịch vụ tài chính được gắn với tự do hoá hoạt động của các ngân hàng thương mại. Các dịch vụ ngân hàng, ngoại hối, trái phiếu, cổ phiếu và bảo hiểm hiện được cung cấp thông qua thị trường toàn cầu ngày càng tăng. Hội nhập các dịch vụ tài chính có thể được coi là một quá trình mở cửa các nền kinh tế và thị trường quốc tế, mở rộng phạm vi và hình thức giao dịch dịch vụ tài chính xuyên biên giới. Hội nhập dịch vụ tài chính xảy ra khi các tổ chức tài chính mở rộng sang sản xuất hoặc phân phối các dịch vụ tài chính tại các địa điểm khác nhau trên toàn cầu như là các doanh nghiệp sáp nhập M&A, các công ty con, văn phòng, hay chi nhánh. Hội nhập các dịch vụ tài chính thường đòi hỏi các tổ chức phải thích ứng với những khác biệt về ngôn ngữ, văn hóa, tiền tệ, cấu trúc quản lý/giám sát, v.v., cũng như khoảng cách địa lý.
Bước 4: Tự do hoá các giao dịch trên tài khoản vãng lai, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế phân bổ quota và các rào cản khác trong giao dịch vãng lai.
Tài khoản vốn và tài khoản vãng lai là hai thành phần cơ bản nhất của cán cân thanh toán quốc tế. Trong khi tài khoản vãng lai phản ánh thu nhập ròng của quốc gia thì tài khoản vốn phản ánh thay đổi ròng trong quyền sở hữu tài sản của quốc gia. Tài khoản vãng lai bao gồm các giao dịch ngắn hạn của một quốc gia. Đây cũng được gọi là các giao dịch thực tế (vì chúng có tác động thực sự đến thu nhập), sản lượng và mức việc làm thông qua sự di chuyển của hàng hóa và dịch vụ trong nền kinh tế. Tài khoản vãng lai bao gồm tài khoản thương mại (xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa), tài khoản dịch vụ (xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ), tài khoản chuyển giao vãng lai một chiều và thu nhập đầu tư (thu nhập từ các yếu tố như đất đai hoặc cổ phần nước ngoài) và thu nhập từ người lao động.
Bước 5: Tự do hoá các giao dịch trên tài khoản vốn
- Tự do hoá tài khoản vốn trong cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm nhiều dòng tài chính, chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dòng vốn danh mục đầu tư (bao gồm cả đầu tư vào cổ phiếu) (FPI) và vay ngân hàng. Tự do hoá tài khoản