Mức Độ Kiềm Chế Tài Chính, Tiết Kiệm Và Đầu Tư


Mức độ hội nhập tài chính mong muốn của từng quốc gia quyết định mức độ tự do hoá tài chính. Một quốc gia chỉ mong muốn hội nhập tài chính một phần thì cũng chỉ có thể tự do hoá tài chính một phần. Trong lý thuyết Tự do hoá tài chính, McKinnon & Shaw (1973) khẳng định rằng việc làm sai lệch giá tài chính như lãi suất làm giảm quy mô thực của hệ thống tài chính so với phi tài chính, dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế thực sự chậm, trái lại, việc tự do hoá lãi suất khiến lãi suất thực tăng, dẫn đến tăng tiết kiệm, thúc đẩy đầu tư và cuối cùng dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Lý thuyết dựa trên các giả định rằng tiết kiệm là một hàm tăng của lãi suất thực tế đối với tiền gửi và tốc độ tăng trưởng sản lượng thực và đầu tư là một hàm giảm của lãi suất cho vay thực tế và là hàm tăng của tốc độ tăng trưởng. Ở giai đoạn kiềm chế ban đầu, lãi suất danh nghĩa được cố định về mặt hành chính, và do đó lãi suất thực được giữ dưới mức cân bằng. Lãi suất thấp khuyến khích tiêu dùng hiện tại và không khuyến khích tiết kiệm. Trần về lãi suất cho vay làm giảm hiệu quả trung bình của các dự án đầu tư vì các khoản đầu tư có lợi nhuận thấp hơn sẽ không sinh lãi khi mà lãi suất cân bằng cao hơn. Xóa trần về lãi suất dẫn đến tăng tiết kiệm, vì lãi suất thực tăng theo đường cong tiết kiệm. Lợi nhuận trung bình của đầu tư tăng lên, vì các dự án năng suất thấp không còn có lãi. Hiệu quả đầu tư tăng lên dẫn đến tăng sản lượng, làm tăng thêm tiết kiệm. Do đó, theo lý thuyết này, trong một môi trường có cơ hội đầu tư dồi dào nhưng hệ thống tài chính bị kiềm chế, chìa khóa để đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn là nâng cao lợi nhuận cho người tiết kiệm, tức là lãi suất thực.

Hình 2.1 giải thích sự tương tác của cung cầu trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Có thể thấy, việc tăng lãi suất sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư dẫn đến tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Khi một nền kinh tế đang ở trong tình trạng kìm hãm cực độ như khi lãi suất được đặt ở mức trần 1, số tiền tiết kiệm và đầu tư sẽ là I1 tại A và nền kinh tế sẽ ở S (g1). Trần lãi suất sẽ gây ra tình trạng thiếu vốn và tín dụng trên thị trường, tức là khoảng cách giữa A và B, do đó dẫn đến phân bổ tín dụng. Nếu mức trần này là về lãi suất huy động, thì các ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận từ biên độ giữa r1 và r3. Khi nền kinh tế trải qua một chút tự do hóa tài chính khi lãi suất chuyển sang r2 và trần lãi suất lên trần 2. Tại r2, tiết kiệm và đầu tư tăng lên I2 tại điểm C, do đó dẫn đến gia tăng các hoạt động kinh tế gây ra tăng trưởng và nền kinh tế sẽ ở S (g2). Tại r2, thiếu hụt tín dụng có mức độ nhỏ hơn (tức là từ C đến D) so với khi ở r1. Khi tự do hóa hoàn toàn về tài chính được thực hiện, tức là khi các lực lượng thị trường được tự do để xác định lãi suất. Lãi suất cân bằng sẽ ở mức r * làm cho lượng tiền tiết kiệm và đầu tư ở mức I *, tức là tại điểm E. Sự gia tăng đầu tư sẽ làm tăng khối lượng hoạt động kinh tế gây ra tăng trưởng kinh tế tại S (g3) .


Hình 2 1 Mức độ kiềm chế tài chính tiết kiệm và đầu tư Nguồn Savanhu et al 1


Hình 2.1. Mức độ kiềm chế tài chính, tiết kiệm và đầu tư

Nguồn: Savanhu et al, 2011

Do đó, nghiên cứu của McKinnon & Shaw (1973) lập luận rằng để một nền kinh tế có tăng trưởng kinh tế thông qua hiệu quả cao hơn trong tích lũy và phân bổ vốn, lãi suất và trần lãi suất, kiểm soát tín dụng và các quy định hạn chế khác cần được loại bỏ. Theo Rehman & Gill (2013), điểm quan trọng của giả thuyết McKinnon là sự gia tăng tỷ lệ tích lũy vốn mong muốn (tiết kiệm tư nhân) ở bất kỳ mức thu nhập nhất định nào dẫn đến sự gia tăng tỷ lệ M/P trên thu nhập, ngụ ý rằng sự gia tăng lợi tức vốn dẫn đến sự gia tăng nhu cầu nắm giữ số dư tiền mặt thực tế cho mục đích tích lũy. Như vậy, tiền không phải là tài sản cạnh tranh; thay vào đó, tiền là kênh dẫn mà qua đó tích lũy diễn ra ở các nước đang phát triển. Điều này hàm ý rằng sự gia tăng lợi nhuận trên tiền thực tế có thể làm tăng mạnh xu hướng tiết kiệm đầu tư ở các nước đang phát triển.

Shaw (1973) đề xuất “giả thuyết trung gian nợ” theo đó mở rộng trung gian tài chính giữa người tiết kiệm và nhà đầu tư tài chính (lãi suất thực tế cao hơn) và phát triển tài chính làm tăng động cơ tiết kiệm và đầu tư, kích thích đầu tư do tăng cung tín dụng và mức tăng hiệu suất đầu tư trung bình. Đối với Shaw, đầu tư (I) là hàm giảm của lãi suất thực (r) và tiết kiệm là hàm tăng của tốc độ tăng trưởng kinh tế (g) và lãi suất thực (r).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

I = I (r); S = S (r, g)


Trong đó :

𝝏(𝑰)

𝝏(𝒓)

< 𝟎;

𝝏(𝑺)

𝝏(𝒓)

> 𝟎;

𝝏(𝑺)

𝝏(𝒈)

> 𝟎


Ngoài ra, sự gia tăng trung gian tài chính tạo động lực hơn cho tăng trưởng trực tiếp. Hội nhập tài chính sẽ dẫn đến một khu vực tư nhân được mở rộng, cải thiện và liên kết hơn, dẫn đến tăng tỷ lệ tiết kiệm, tăng tỷ lệ đầu tư (bằng cách tạo điều kiện cho đầu


tư nhiều hơn); và tăng cường trực tiếp cho tăng trưởng (bằng các công nghệ tài chính được cải tiến).

Do đó, McKinnon & Shaw (1973) nhấn mạnh tự do hóa tài chính gồm những đặc tính sau:

1. Lãi suất và tỷ giá do thị trường quyết định;

2. Dễ dàng hơn trong quá trình gia nhập vào thị trường tài chính để khuyến khích cạnh tranh;

3. Loại bỏ các chương trình định hướng tín dụng;

4. Giảm sự phụ thuộc tài khoá của nhà nước vào tín dụng từ hệ thống ngân hàng (để cho phép mở rộng tín dụng hơn cho khu vực tư nhân);

5. Sự hội nhập của thị trường chính thức và không chính thức;

6. Sự dịch chuyển đối với tỷ giá cân bằng và cuối cùng là các chế độ tỷ giá có thể thực hiện được với các tài khoản vốn mở (Serieux, 2008).

McKinnon & Shaw (1973) khẳng định thêm rằng lãi suất thực tế cao hơn cũng hỗ trợ việc chuyển nguồn vốn đến các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất và tạo điều kiện cho sự đổi mới và phát triển công nghệ. Điều này được giải thích là khi trả một mức lãi suất cao hơn khả năng đầu tư cận biên, có thể khiến một số doanh nhân từ bỏ đầu tư từ các quy trình kém hơn sang các quy trình công nghệ được cải tiến và các doanh nghiệp có năng suất cao. Do đó, tạo ra các khoản tiết kiệm ròng dương mới, điều này rất quan trọng để giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài và kích thích đầu tư nhiều hơn và dẫn đến tăng trưởng.

Tự do hóa thị trường chứng khoán và tài khoản vốn, hai nội dung quan trọng của hội nhập tài chính, cũng được cho là có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Liên kết toàn cầu gia tăng thông qua các dòng tài chính xuyên biên giới có thể làm tăng trưởng kinh tế thông qua các kênh khác nhau. Đầu tiên, hội nhập tài chính của một quốc gia nghèo, xét về mặt tài trợ vốn, đầu tư vào nước này cao hơn để kiếm lợi nhuận cao hơn (Prasad & các cộng sự, 2003). Thứ hai, phân bổ rủi ro được cải thiện làm giảm phí bảo hiểm rủi ro, do đó giảm chi phí huy động vốn (Prasad & các cộng sự, 2003; Bekaert, Harvey & Lundblad, 2000, 2001). Đa dạng hóa rủi ro toàn cầu có thể làm tăng đầu tư vào các dự án rủi ro nhưng kỳ vọng hoàn vốn cao hơn (Obstfeld, 1994). Thứ ba, chuyển giao công nghệ và bí quyết quản lý có thể nâng cao năng suất tổng hợp và từ đó giúp tăng trưởng kinh tế (Prasad & các cộng sự, 2003). Thứ tư, hội nhập có thể giúp ngành tài chính trong nước tăng cường cải thiện khung pháp lý và giám sát hệ thống ngân hàng,


bằng cách khuyến khích các ngân hàng thương mại nước ngoài giới thiệu các sản phẩm dịch vụ tài chính có tính cải tiến hoặc bằng cách tăng cạnh tranh có thể cải thiện chất lượng dịch vụ tài chính trong nước (Prasad & các cộng sự, 2003). Thứ năm, hội nhập tài chính làm gia tăng mức độ phát triển của các hạ tầng tài chính, giúp phân bổ nguồn lực đầu tư của khu vực trong nước hiệu quả hơn. Khi có nhiều ngân hàng và quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động sẽ làm tăng số lượng các công ty xếp hạng tín nhiệm có uy tín. Điều này sẽ giúp phần cải thiện phân bổ nguồn lực đầu tư cho khu vực trong nước. Các doanh nghiệp uy tín, làm ăn có hiệu quả, được xếp hạng cao và có thể vay vốn với chi phí thấp.

Mặt khác, nhiều nghiên cứu lý thuyết chứng minh rằng có thể quá trình hội nhập tài chính có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Theo R. Mckinnon (1996), hội nhập tài chính hay tự do hoá tài chính có thể dẫn đến bất ổn và khủng hoảng tài chính. Các chính phủ cần đảm bảo quá trình chuyển dịch phải tuân thủ theo trình tự, bên cạnh những điều kiện về lãi suất, tỷ giá.

Theo Devereux & Smith (1994), để hạn chế tác động không mong muốn của hội nhập tài chính đến tăng trưởng, một số giải pháp cần được nghiên cứu. Thứ nhất, bãi bỏ quy định kiềm chế tài chính, bằng cách tăng cạnh tranh giữa các nhà cung cấp trung gian tài chính, thúc đẩy quan hệ tín dụng của các tổ chức bị hạn chế trước đó (Bayoumi, 1993). Thứ hai, hội nhập tài chính liên quan đến thị trường ngoại hối có thể tạo ra dòng vốn lớn, điều này có thể dẫn đến sự gia tăng thu nhập thực tế và tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế. Thứ ba, tự do hóa lãi suất có thể không khuyến khích tiết kiệm khi lãi suất thấp. Thứ tư, tự do hóa thị trường chứng khoán có thể cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính và giúp các quỹ tăng cường đầu tư vào khu vực tài chính chính thức (Bandiera & các cộng sự, 2000).

Điều có thể nhận thấy rõ ràng là mô hình Keynes có điểm trái ngược với luận điểm của McKinnon. Các mô hình Keynes nhấn mạnh vai trò của nhu cầu hiệu quả. Trong các mô hình này, việc tăng lãi suất tiền gửi làm tăng xu hướng tiết kiệm cận biên và do đó làm giảm tổng cầu. Nếu tổng cầu và sản lượng giảm thì tỷ lệ lợi nhuận sẽ giảm và do đó đầu tư sẽ giảm. Kết quả là, đầu tư vào một nền kinh tế tự do hóa tài chính có thể thấp hơn so với đầu tư vào một nền kinh tế đóng (Burkett & Dutt, 1991). Kết quả này có sự mâu thuẫn với với luận điểm tự do hóa tài chính.

Kết luận chung là mức độ phát triển tài chính cao hơn dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn (Beck & các cộng sự, 2000). Tuy nhiên, thực tế ghi nhận được từ nhiều quốc gia cho thấy hội nhập tài chính có thể không phải là điều kiện cần cũng như là điều kiện đủ để đạt được tốc độ tăng trưởng cao. Một vấn đề quan trọng cần được nhấn mạnh


đó là việc quản lý thận trọng về trình tự của quá trình hội nhập tài chính của một nền kinh tế với thị trường toàn cầu. Đối với một vài quốc gia, trình tự hội nhập tài chính không được chú trọng. Quá trình hội nhập tài chính có thể được bắt đầu bằng việc tự do hoá tài khoản vốn, thị trường chứng khoán hay khu vực tài chính trong nước. Tuy nhiên, khủng hoảng dường như trở nên nghiêm trọng hơn ở các quốc gia đang phát triển khi họ mở cửa tài khoản vốn đầu tiên (Kaminsky & Schmukler, 2003).

2.3.1.2. Tác động của tăng trưởng kinh tế đến tình trạng đói nghèo

Mặc dù tăng trưởng kinh tế đại diện cho sản lượng tăng ở một quốc gia nói chung, nhưng không có sự đảm bảo rằng lợi ích từ tăng trưởng sẽ được phân phối đồng đều giữa các nhóm khác nhau. WB (2001) đưa ra một nhận định là với tốc độ tăng trưởng nhất định, mức độ giảm nghèo phụ thuộc vào cách phân phối thu nhập thay đổi theo tăng trưởng và phụ thuộc vào sự bất bình đẳng ban đầu về thu nhập, tài sản và việc tiếp cận các cơ hội sẽ có lợi cho người nghèo trong tăng trưởng.

Nhìn tổng thể, có hai cách tăng trưởng kinh tế có thể mang lại lợi ích cho người nghèo (Klasen, 2001). Đầu tiên, có những lợi ích trực tiếp trong đó tăng trưởng kinh tế thúc đẩy các ngành và khu vực nơi người nghèo sinh sống và các yếu tố sản xuất mà người nghèo sở hữu. Mặc dù các chính sách được sử dụng thông qua kênh trực tiếp có vẻ đáng tin cậy hơn trong việc giảm nghèo, nhưng chúng lại tạo ra nguy cơ người nghèo có thể chịu thiệt hại nhiều hơn trong thời kỳ suy thoái. Cũng có những lợi ích gián tiếp thông qua các chính sách phân phối lại, đặc biệt là thuế, chuyển nhượng và chi tiêu của chính phủ. Tăng trưởng kinh tế có thể cung cấp cơ hội để phân phối lại lợi nhuận từ tăng trưởng. Tăng trưởng có thể tạo ra các nguồn tài chính để mở rộng đầu tư vào tài sản của người nghèo hoặc đem lại sự an toàn hơn về tài chính cho người nghèo.

Lý thuyết của J. M. Keynes (1936) cho rằng tăng trưởng có thể thúc đẩy phát triển kinh tế và do đó làm giảm tình trạng đói nghèo, qua đó nhấn mạnh vai trò trong việc can thiệp của chính phủ ở cấp độ kinh tế vĩ mô (thông qua chính sách tài khóa và tiền tệ), chủ yếu để giải quyết tình trạng thất nghiệp không tự nguyện. J. M. Keynes tin rằng các lực lượng thị trường có thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, điều này được coi là công cụ quan trọng nhất chống lại đói nghèo. Như vậy, điểm xuất phát của mô hình Keynes cũng giống như mô hình tân cổ điển: tăng trưởng kinh tế cuối cùng được coi là yếu tố hiệu quả nhất trong việc chấm dứt đói nghèo. Alfred Marshall được coi là cha đẻ của kinh tế học tân cổ điển cho rằng việc tăng cường giáo dục, giúp thúc đẩy vốn nhân lực, cho phép người lao động đạt được tiêu chuẩn công việc cao hơn, dẫn đến sự cải thiện thu nhập của họ. (Jung & Smith, 2007).


Sự khác biệt lớn so với lý thuyết Tân cổ điển là lý thuyết Tự do hoá tài chính chú trọng nhiều hơn về khía cạnh vĩ mô so với định hướng vi mô. Do đó, J. M. Keynes cũng thừa nhận tầm quan trọng của giáo dục. Nhà nghiên cứu nhấn mạnh vào khía cạnh vốn con người, tuy nhiên khía cạnh này không phụ thuộc vào quá nhiều những quyết định của cá nhân mà nó phụ thuộc vào việc thúc đẩy tích luỹ vốn con người thông qua đầu tư tổng thể cho giáo dục công. Vì vậy, vai trò của chính phủ trong nền kinh tế chiếm vị trí trung tâm. Có ý kiến cho rằng sự can thiệp của chính phủ trong quá trình giảm đói nghèo cần thiết trong nhiều khía cạnh của nền kinh tế, từ giải quyết tình trạng thất nghiệp không tự nguyện đến thúc đẩy tích lũy vốn con người và thông qua đầu tư vào giáo dục công, có thể khuyến khích tăng trưởng kinh tế thông qua hệ số nhân nổi tiếng (multipler). Đây là quan điểm hoàn toàn trái ngược với lý thuyết Cổ điển và Tân cổ điển cho rằng nên hạn chế sự hiện diện của chính phủ trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế.

Theo quan điểm của Keynes, đói nghèo chủ yếu được giải thích là do “sự bất hạnh của nhóm thiểu số bị mất việc làm, không thể làm việc hoặc không được kỳ vọng mặc dù họ sẵn sàng làm công việc đó”. Do đó, nhà nước cần phải có những chính sách để “điều chỉnh, bổ sung và khuyến khích, nhưng không áp đặt” (Townsend, 1979). Lý thuyết này cho rằng đói nghèo có thể là phản ánh của những thất bại của thị trường, trong những trường hợp nhất định, giải thích rõ ràng cho việc đánh thuế tái phân phối bằng tiền và hiện vật.

Từ tập hợp các biến số kinh tế vĩ mô mà Keynes và những nhà nghiên cứu ủng hộ Keynes nhấn mạnh tác động tích cực của tổng đầu tư đối với việc làm, được xem như là yếu tố quan trọng để tạo ra tăng trưởng cho phép xóa đói giảm nghèo. Đầu tư doanh nghiệp thấp sẽ làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ đói nghèo. Có ý kiến cho rằng doanh thu của chính phủ, thu được từ thuế hoặc phát hành trái phiếu, nên được chuyển sang đầu tư công. Theo cách nói của Keynes, điều này được coi là ‘xã hội hóa đầu tư’ (Jung & Smith, 2007). Đồng thời, các doanh nhân sẽ được khuyến khích đầu tư vào các dự án sinh lời hơn là tiết kiệm nếu thuế trực thu tăng lên.

Việc tập trung vào đầu tư công để đạt được các mục tiêu bổ sung về tăng trưởng kinh tế, việc làm và giảm nghèo mạnh nhất ở một số lĩnh vực chiến lược quan trọng thể hiện hiệu quả cấp số nhân cao nhất. Các lĩnh vực này liên quan nhiều tới cơ sở hạ tầng và phát triển con người hoặc các lĩnh vực giáo dục. Thông qua đầu tư nguồn lực gồm cả vốn tư nhân vào các khu vực này thúc đẩy hơn nữa các hoạt động xóa đói giảm nghèo bằng cách tạo ra giá trị gia tăng. Hơn nữa, nếu một nền kinh tế đang phát triển kích thích tăng trưởng việc làm nhắm tới mục tiêu giảm đói nghèo, thì sự tăng trưởng đó rất hấp dẫn. Nguyên nhân là vì sẽ không cần thiết phải tăng thuế suất để tài trợ cho các chương


trình chống đói nghèo, bởi vì khi tỷ lệ nghèo thấp hơn làm giảm nhu cầu đối với các chương trình này (Jefferson, 2012).

Tăng trưởng có khả năng làm giảm nghèo tuyệt đối vì nó sẽ có xu hướng nâng cao thu nhập của mọi thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, những tác động có lợi của việc mở rộng hoạt động kinh tế đối với tình trạng nghèo tương đối xảy ra với điều kiện khi thu nhập bình quân tăng cùng với tăng trưởng kinh tế đi kèm với (1) giảm phương sai của phân phối thu nhập; hoặc là (2) sự gia tăng về mức độ phân tán không bù đắp được sự gia tăng của mức thu nhập trung bình (Granville & Mallick, 2006).

Như Dickens & Ellwood (2001) đã chỉ ra, tăng trưởng tiền lương thường đi kèm với tăng trưởng GDP có thể dẫn đến tăng đói nghèo tương đối nếu sự phân tán tiền lương tăng lên, ngay cả khi mức lương trung bình được cải thiện. Ảnh hưởng của đói nghèo tuyệt đối là không rõ ràng với điều kiện là mức lương trung bình cũng tăng lên. Giả thuyết này tương ứng với lý thuyết rằng tỷ lệ đói nghèo có thể thực sự vẫn tồn tại và thậm chí tăng lên bất chấp sự tăng trưởng kinh tế nếu những người nghèo không được quan tâm và bị bỏ lại phía sau (Dickens & Ellwood, 2001).

Như vậy, xét về về mối quan hệ giữa hội nhập tài chính, tăng trưởng và tình trạng đói nghèo qua các nghiên cứu lý thuyết kể trên, có thể thấy rằng hội nhập tài chính dẫn đến tăng trưởng kinh tế là một giả thuyết mạnh mẽ trong nhiều trường hợp. Tác động tăng trưởng và giảm nghèo của hội nhập tài chính phụ thuộc vào những thay đổi phân phối do tăng trưởng và tập hợp các thể chế và chính sách đi kèm.

2.3.2. Tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo thông qua kênh khủng hoảng tài chính

Tác động tích cực của hội nhập tài chính theo quan điểm của McKinnon & Shaw (1973) ở nhiều quốc gia đã giảm bớt vào những năm 1980 và 1990 (Arestis & Glickman, 2002). Ở một số quốc gia, ngành ngân hàng bắt đầu bộc lộ một số vấn đề ngay sau khi các quy định của ngành tài chính bị bãi bỏ (Diaz & Alejandro, 1985). Các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng ở Mỹ Latinh và Đông Á đều phải đối mặt với sự suy thoái bất ngờ vì việc dòng vốn khổng lồ đảo ngược dòng. Trước hiện tượng này, một số nhà nghiên cứu chỉ trích các chính sách hội nhập tài chính và đề nghị đưa ra một số giới hạn đối với dòng vốn để hạn chế các rủi ro (Stiglitz, 1999; Arestis & Glickman, 2002). Lý thuyết về tác động của hội nhập tài chính đến khủng hoảng tài chính sẽ được trình bày trước khi phân tích về tác động của khủng hoảng ảnh hưởng đến đói nghèo trong phần này của luận án.


Theo nghiên cứu của McKinnon & Pill (1997), khi xuất hiện rủi ro đạo đức trên thị trường vốn và dòng vốn quốc tế không bị hạn chế, và khi có bảo hiểm tiền gửi, các ngân hàng cho vay ồ ạt, dẫn đến hiện tượng quá tải trong đầu tư và giảm tiết kiệm. Khi có những diễn biến xấu trong nền kinh tế, các công ty gặp khó khăn trong việc trả các khoản vay đầu tư và điều này sẽ khiến hệ thống ngân hàng gặp rắc rối nghiêm trọng.

Bacchetta & Wincoop (1998) kết luận rằng làn sóng hội nhập tài chính và cải cách thể chế là yếu tố cơ bản dẫn tới sự gia tăng dòng vốn vào một số nước đang phát triển. Arestis & Glickman (2002) cũng đưa ra lý thuyết về tác động tiêu cực của hội nhập tài chính dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính. Tỷ lệ tăng trưởng và thất nghiệp đang bị đe dọa bởi sự bất ổn này. Theo Kaminsky & Schmukler (2003), mặc dù thị trường chứng khoán ổn định về lâu dài (tức là trong năm năm hoặc lâu hơn), thì mức độ bùng nổ và khả năng sụp đổ tăng đáng kể ngay sau khi hội nhập tài chính. Cụ thể, hội nhập tài chính có xu hướng tạo ra các chu kỳ tài chính lớn hơn. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các tác động ngắn hạn của hội nhập tài chính khác nhau đối với các thị trường phát triển và mới nổi. Ở các thị trường mới nổi, các hiệu ứng ngắn hạn rõ rệt hơn. Sự bùng nổ và nguy cơ sụp đổ cao hơn trong thời kỳ hội nhập tài chính so với thời kỳ đóng cửa. Trong các thị trường phát triển, sự bùng nổ và nguy cơ vỡ bong bóng không tăng nhiều như trong trường hợp thị trường mới nổi.

Tiếp theo, khủng hoảng tài chính tác động đến tình trạng đói nghèo sẽ được trình bày một cách cụ thể. Khủng hoảng tài chính, bao gồm khủng hoảng cán cân thanh toán và khủng hoảng ngân hàng, có thể không chỉ ảnh hưởng đến mức sống hiện tại của người nghèo, mà còn ảnh hưởng đến cả khả năng thoát nghèo. Có nhiều kênh thông qua đó các cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến đói nghèo và phân phối thu nhập (Baldacci & các cộng sự, 2002; Ferreira & các cộng sự, 1999). Đầu tiên, khủng hoảng thường dẫn đến giảm thu nhập của cả lao động trong khu vực chính thức và phi chính thức do tình trạng mất việc làm. Mức độ tác động của các cuộc khủng hoảng đối với từng người lao động khác nhau phụ thuộc vào trình độ, kỹ năng và mức độ bảo hiểm công việc của họ. Thứ hai, thay đổi giá tương đối gây ra bởi một cuộc khủng hoảng sẽ có một số ảnh hưởng đến phân phối thu nhập. Sự mất giá tiền tệ dẫn đến sự sụt giảm giá phi thương mại so với thương mại, dẫn đến giảm thu nhập của những người làm việc trong lĩnh vực phi thương mại. Việc mất giá tiền tệ làm gia tăng khả năng xuất khẩu, sẽ dẫn đến tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thu nhập cao hơn trong các lĩnh vực xuất khẩu, điều này bù đắp một số tổn thất thu nhập. Tuy nhiên, xét về việc nhập khẩu thực phẩm, sự thay đổi tỷ giá sẽ làm tổn thương các hộ gia đình tiêu dùng thực phẩm. Thứ ba, chính sách tài khóa thắt chặt để đối phó với khủng hoảng dẫn đến cắt giảm các chương trình xã hội.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/06/2023