Tác Động Của Hội Nhập Tài Chính Đến Tình Trạng Đói Nghèo


chưa thực sự thuyết phục bởi vì tình trạng đói nghèo chỉ được xem xét như là một nguyên nhân của các vấn đề xã hội khác.

Theo Whelan (2007), tình trạng đói nghèo về cơ bản là do không đủ hoặc thiếu nguồn lực làm cản trở việc tham gia vào các hoạt động chính trị và các hoạt động kinh tế xã hội. Townsend (1979) định nghĩa đói nghèo ở phạm vi rộng hơn đó là khi các cá nhân, gia đình và nhóm dân cư thiếu các nguồn lực để đáp ứng chế độ ăn uống, tham gia vào các hoạt động và đạt các điều kiện sống tiện nghi thông thường, hoặc ít nhất được khuyến khích hoặc chấp nhận rộng rãi trong xã hội. Quan điểm của các tác giả trên khá đầy đủ vì đã đề cập đến yếu tố cơ bản của tình trạng đói nghèo đó là “sự thiếu hụt nguồn lực”, nhưng chưa giải thích cụ thể nội dung của “nguồn lực”, vì vậy các quan điểm này không thực sự đầy đủ.

Khái niệm tình trạng đói nghèo được xây dựng hay được phát triển theo các thuật ngữ "tuyệt đối" và "tương đối" (Noble & cộng sự, 2004; Sen, 2000; Liên Hợp Quốc, 1995; WB, 2000). Noble & cộng sự (2004) cho rằng tình trạng đói nghèo “tuyệt đối” là một hoàn cảnh hoặc điều kiện liên quan đến địa phương hoặc nhóm cụ thể, và do đó các giải pháp giảm tình trạng đói nghèo phải phù hợp với bối cảnh riêng của địa phương và nhóm đó. Đói nghèo tuyệt đối đề cập tới tập hợp các nguồn lực để một cá nhân hay một gia đình có thể đáp ứng hay duy trì được mức sống tối thiểu. Do đó, chuẩn nghèo tuyệt đối là ngưỡng mà các hộ gia đình không thể duy trì mức sống tối thiểu. Ngưỡng này thường được sử dụng ở các quốc gia đang phát triển. Theo WB (2019), đói nghèo tuyệt đối được xác định là có mức sống ở dưới 1,9 USD một ngày một người trong một gia đình. Từ góc độ nhân quyền, trách nhiệm của các quốc gia là đảm bảo công dân của họ có thể tiếp cận tới một mức độ hàng hóa tiêu dùng tối thiểu để đáp ứng quyền cơ bản về sức khỏe và phúc lợi (WB, 2005). Khái niệm "tương đối" về tình trạng đói nghèo có nghĩa là một mức sống của một người thấp hơn khi được so sánh với mức sống của những người khác trong phân phối thu nhập/ chi tiêu và định nghĩa tình trạng đói nghèo tương đối về cơ bản là một hiện tượng của bất bình đẳng (Bellu, 2005). Các quan điểm về tình trạng đói nghèo được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu “tuyệt đối” hay “tương đối” có nội dung rộng lớn và bao quát hơn các quan điểm nêu trên bởi các ngưỡng để duy trì mức sống của các cá nhân, hộ gia đình đã được nhấn mạnh để xác định tình trạng đói nghèo một cách cụ thể phục vụ cho các nghiên cứu thực nghiệm về chủ đề liên quan đến tình trạng đói nghèo.

Tóm lại, theo quan điểm của tác giả, dù dựa trên quan niệm tương đối hay tuyệt đối thì tình trạng đói nghèo về cơ bản vẫn được thống nhất là tình trạng mức sống thấp của người dân, không thể đáp ứng và duy trì các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.


Ngưỡng mà các hộ gia đình không thể duy trì mức sống tối thiểu có thể thay đổi theo thời kỳ và có thể khác nhau giữa các quốc gia phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia đó.

2.2.2. Nguyên nhân của tình trạng đói nghèo

Tình trạng đói nghèo không chỉ được gây ra bởi một nguyên nhân hay yếu tố riêng lẻ mà là bởi sự kết hợp của các yếu tố phức tạp thuộc ba nhóm nguyên nhân bao gồm kinh tế vĩ mô, thể chế và xã hội. Các nhóm nguyên nhân được phân tích cụ thể như sau:

Nhóm nguyên nhân về kinh tế vĩ mô bao gồm:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

- Tăng trưởng kinh tế thấp hoặc âm: Ở các nước đang phát triển, tăng trưởng tạo ra việc làm, tạo thu nhập cho người lao động, tiến tới giảm đói nghèo. Nhìn chung, kể từ đầu những năm 1980, tốc độ tăng trưởng rất dễ biến động hoặc tiêu cực, với mức giảm tổng thể ở một số quốc gia. Điều này một phần là do các cú sốc bên ngoài điển hình như những thay đổi bất lợi trong các điều khoản thương mại của một số quốc gia, những thay đổi về nhu cầu toàn cầu đối với xuất khẩu và những thay đổi trong lãi suất toàn cầu đối với nợ nước ngoài của các nước đang phát triển. Những nguyên nhân này góp phần gia tăng tỷ lệ đói nghèo ở các quốc gia khác nhau của thế giới (WB, 2010).

- Lạm phát: đặc biệt là khi tiền lương danh nghĩa của người có thu nhập thấp bị giảm hoặc tăng trưởng với tốc độ thấp hơn giá cả, lạm phát có thể làm giảm thu nhập thực tế của người lao động và tạo ra đói nghèo. Người nghèo chịu nhiều thiệt hại hơn khi giá của hàng hóa cơ bản bị ảnh hưởng. Agenor (1999) chỉ ra rằng lạm phát luôn làm tăng tỷ lệ đói nghèo, trong khi đó Easterly & Fischer (2001) nhận thấy những người nghèo có xu hướng coi lạm phát là mối đe doạ hàng đầu.

Tác động của hội nhập tài chính lên đói nghèo của các nước đang phát triển khu vực châu Á - 7

- Các cú sốc kinh tế vĩ mô và sự thất bại trong chính sách của chính phủ: Đây là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đói nghèo ở đa số các quốc gia trên thế giới. Việc các nền kinh tế trên thế giới phải đối mặt với mất cân bằng kinh tế vĩ mô, chủ yếu là trong cán cân thanh toán do các chính sách mở rộng tổng cầu, các cú sốc điều khoản thương mại và thiên tai khiến tỷ lệ đói nghèo trở nên tăng cao. Những cú sốc kinh tế vĩ mô và sự thất bại trong chính sách dẫn đến tình trạng đói nghèo phần lớn là do việc hạn chế người nghèo sử dụng tài sản lớn nhất và duy nhất là “sức lao động”. Ngoài ra, các chính sách tiền tệ ảnh hưởng xấu đến chi phí và khả năng tiếp cận tín dụng của người nghèo, hay chính sách tài khóa dẫn đến thiếu việc làm, bị sa thải hoặc thay thế nhân sự, chính sách tỷ giá hối làm tăng chi phí sản xuất trong nước trong một hệ thống sản xuất phụ thuộc vào nhập khẩu sẽ ảnh hưởng đến tình trạng đói nghèo một cách tiêu cực.


- Gánh nặng nợ: Ở một số quốc gia đang phát triển trên thế giới, gánh nặng nợ được xem như là nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng đói nghèo. Ở những quốc gia như vậy, việc phải trả nợ ảnh hưởng đến ngân sách đầu tư cho các lĩnh vực công (cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế, thể dục thể thao), cản trở việc tăng trưởng kinh tế và phân bổ các nguồn lực để xóa đói giảm nghèo do phải thực hiện các chương trình thắt lưng buộc bụng (Granville & Mallick, 2006).

- Bong bóng thị trường tài sản: giá nhà đất tăng mạnh và giá thuê nhà tăng có thể tăng tỷ lệ vô gia cư (Early & Olsen, 2002). Rủi ro này càng cao hơn đối với những người không có thu nhập để trả tiền thuê nhà hoặc tiền lãi và những người có ít tài sản để đủ điều kiện thế chấp, và đối với những người ở những nơi thiếu nhà ở xã hội. Do đó, bong bóng nhà ở có thể là một nguyên nhân làm gia tăng đói nghèo bởi vì các nhóm thu nhập thấp dễ bị tổn thương nhất khi không có khả năng tham gia vào thị trường nhà ở.

Nhóm nguyên nhân về thể chế:

- Tình trạng đói nghèo dai dẳng và phổ biến ở một số quốc gia được gây ra bởi tình trạng thể chế yếu kém bao gồm sự thiếu trách nhiệm giải trình, thiếu tính minh bạch trong phân bổ nguồn lực, và sự yếu kém trong thực hiện và giám sát chương trình giảm đói nghèo. Cụ thể, những người đứng đầu ở một số quốc gia chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm và nghĩa vụ trong việc cung cấp, giải trình đầy đủ, kịp thời các thông tin đối với các cơ quan cấp trên và đối với đối tượng quản lý, do vậy chưa thực sự hiện thực hoá được pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống. Các chương trình giảm đói nghèo cũng chưa được giám sát đầy đủ bởi các cơ quan quản lý dẫn đến vẫn còn xảy ra các hiện tượng tiêu cực như việc lãng phí nguồn lực, phân bổ nguồn lực sai quy định, làm trầm trọng thêm tình trạng đói nghèo.

- Các thể chế yếu kém còn gây ra hiện tượng tham nhũng, và sự tập trung quyền lực kinh tế và chính trị vào một nhóm ít người, cụ thể, là việc lạm dụng quyền lực công để tư lợi, làm hạn chế khả năng tiếp cận của người nghèo đối với các nguồn lực dành cho họ và gây ra sự thất thoát các nguồn lực công để đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội khiến tỷ lệ đói nghèo gia tăng (Tebaldi, 2010).

Nhóm nguyên nhân về xã hội:

- Sự yếu kém trong phát triển nguồn nhân lực: Thiếu sự đầu tư vào vốn con người là yếu tố cản trở của sự gia tăng các cơ hội có việc làm, tăng năng suất lao động, tăng thu hút vốn đầu tư và tăng khả năng kiếm tiền. Cụ thể, lao động phổ thông không thể đảm nhận các công việc đòi kiến thức chuyên môn cao, kỹ năng tốt, do đó không thể có việc làm và tăng thu nhập. Trong một số hoàn cảnh (công nghiệp hóa, thay đổi cơ


cấu kinh tế, v.v…), số lượng công việc phổ thông bị giảm thiểu, những người lao động không có kỹ năng trở nên thất nghiệp và mất thu nhập, từ đó dễ rơi vào tình trạng đói nghèo.

- Sự thiếu điều kiện về sức khoẻ: Khía cạnh sức khỏe là thành phần chính trong nguồn vốn nhân lực của các cá nhân và yếu tố này ảnh hưởng gián tiếp đến khả năng xảy ra đói nghèo. Tình trạng sức khỏe kém dẫn đến khả năng tìm được việc làm giảm (hoặc hoàn toàn không thể làm việc) và xác suất rơi vào cảnh đói nghèo cao hơn (Reinstadler & Ray, 2010). Những cá nhân có tình trạng sức khoẻ không ổn định vẫn có thể tham gia vào thị trường lao động, nhưng họ không đủ điều kiện kiếm được công việc có mức lương tương đối cao, mà chỉ phù hợp với công việc có mức lương thấp phản ánh năng suất cận biên tương đối thấp (Buddelmeyer & Cai, 2009). Ngược lại, thu nhập thấp có thể gây ra tình trạng sức khỏe kém do các yếu tố như suy dinh dưỡng và ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ y tế, hay sự giảm sút tinh thần vì đói nghèo dẫn đến hành vi gây hại đối với sức khỏe, bao gồm hút thuốc, nghiện rượu, và lạm dụng ma túy. Do đó, mối quan hệ hai chiều giữa tình trạng sức khỏe kém và đói nghèo tạo thành một vòng luẩn quẩn dẫn đến bẫy nghèo vĩnh viễn đối với những người trong độ tuổi lao động.

- Thiếu khả năng tiếp cận thị trường tín dụng: Việc không có cơ hội tiếp cận với thị trường tín dụng cũng là một nguyên nhân dẫn đến đói nghèo. Những cá nhân không có đủ tài sản thế chấp đối với các khoản tín dụng không thể bắt đầu các hoạt động kinh doanh để có thể thoát nghèo (Granville & Mallick, 2006). Vấn đề này rõ ràng có mối liên hệ với sự thiếu hụt của tài sản kinh tế phù hợp, cũng như thông tin không cân xứng, rủi ro đạo đức và sự lựa chọn bất lợi vốn có đối với thị trường tín dụng. Khả năng tiếp cận tín dụng và việc thiếu tài sản là mối quan hệ nhân quả và tạo thành một vòng luẩn quẩn ví dụ như ràng buộc về thanh khoản và tài sản thế chấp ngăn cản mọi người tích lũy đủ nguồn lực/ tài sản để thoát nghèo, và tiếp đó lại dẫn đến việc thiếu khả năng tiếp cận các khoản tín dụng. Quá trình này tạo ra một cái bẫy đói nghèo một cách hiệu quả (Ulimwengu, 2008). Vậy khả năng tiếp cận nguồn tín dụng là cơ hội giúp người nghèo thoát khỏi cảnh đói nghèo, có cơ hội đầu tư sản xuất, cải thiện thu nhập.

- Tội phạm và bạo lực: Sự gia tăng tỷ lệ tội phạm và bạo lực đã làm suy giảm chất lượng cuộc sống ở một mức độ khác nhau ở nhiều khu vực trên thế giới. Mặc dù các cá nhân thuộc mọi nhóm kinh tế xã hội đều bị ảnh hưởng, nhưng người nghèo thành thị đặc biệt dễ bị tổn thương bởi những vấn đề xã hội này. Tội phạm và Bạo lực gây ra những tổn thất kinh tế nghiêm trọng. Cụ thể, một tỷ lệ ngày càng tăng của các nguồn lực công, vốn đã hạn chế, cần phải tăng cường cho lực lượng cảnh sát thực thi, hỗ trợ số lượng nhà tù ngày càng tăng, cung cấp tài chính cho các nhu cầu đặt ra đối với hệ thống


tư pháp và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho những người bị thương do bạo lực. Các chi phí khác bao gồm hệ thống an ninh và bảo vệ hiện nay được yêu cầu bởi các doanh nghiệp và nhà ở. Thiệt hại về doanh thu tiềm năng từ việc các nhà đầu tư nước ngoài và khách du lịch đã tìm kiếm điểm đến khác do mối đe dọa của tội phạm và sự di cư của tầng lớp trung lưu thành thị. Do đó, tỷ lệ tội phạm tăng cao ảnh hưởng tiêu cực đối với tình trạng đói nghèo.

2.2.3. Các chỉ số đo lường mức độ đói nghèo

Việc đo lường đói nghèo và bất bình đẳng đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định các chính sách phát triển kinh tế và ổn định chính trị. Việc đo lường chính xác sẽ giúp cho các quyết sách trở nên chính xác và toàn diện hơn vì các nhà hoạch định chính sách sẽ biết đặt trọng tâm ưu tiên cho nhóm người nghèo hay người giàu trong từng thời kỳ, nhằm hướng tới mục tiêu dài hạn.

Trước kia, các dữ liệu dùng để đo lường đói nghèo còn sơ khai thì chỉ có một số thước đo truyền thống về đói nghèo được sử dụng trong các công trình nghiên cứu về xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, các chỉ số này đều có nhược điểm đó là số liệu không được thu thập một cách thường xuyên, liên tục. Có thể kể đến một số chỉ số truyền thống được chọn làm biến đại diện cho đói nghèo dưới đây:

- Chỉ số tính theo đầu người (Headcount): từng là chỉ số được sử dụng phổ biến nhất để ước tính tỷ lệ đói nghèo. Chỉ số này đo lường tỷ lệ dân số được coi là nghèo. Mặc dù chỉ số được xây dựng một cách đơn giản và dễ hiểu, tuy nhiên, chỉ số không chỉ ra được độ sâu của đói nghèo. Nói cách khác, chỉ số không thể nắm bắt được mức độ thu nhập (hoặc chi tiêu) của cá nhân giảm xuống dưới mức nghèo khổ.

- Chỉ số khoảng cách đói nghèo: Khoảng cách đói nghèo là một tỷ lệ cho thấy mức độ thiếu hụt trung bình về thu nhập của người dân so với mức nghèo khổ hay mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo các nhu cầu thiết yếu cho sự tồn tại. Theo quan điểm của tác giả, chỉ số này cho biết số lượng tiền cần thiết cần được chuyển người nghèo để giúp họ thoát nghèo. Chính xác hơn, chỉ số này thể hiện chi phí tối thiểu để xóa đói giảm nghèo bằng các hỗ trợ tài chính. Tuy nhiên, chỉ số khoảng cách đói nghèo không tính đến sự khác biệt về mức độ nghiêm trọng đói nghèo giữa những người nghèo, và do đó có xu hướng bỏ qua sự bất bình đẳng giữa những người nghèo. Chỉ số khoảng cách đói nghèo có thể bổ sung cho chỉ số tính theo đầu người, nhưng vẫn không thể phản ánh một cách đầy đủ tỷ lệ đói nghèo ở một quốc gia.

- Đo lường nghèo tương đối: Có hai cách đo lường nghèo tương đối. Thứ nhất, đói nghèo tương đối được đo bằng phần trăm dân số có thu nhập ít hơn thu nhập trung


bình của đất nước. Ở các quốc gia phát triển, chỉ số đo lường nghèo tương đối này thường được sử dụng để tính mức nghèo. Trong trường hợp này, ngưỡng nghèo thường được đặt ở mức 50% thu nhập trung bình hộ gia đình của đất nước. Cụ thể, nghèo tương đối xảy ra khi hộ gia đình có thu nhập dưới mức 50% của thu nhập trung bình của các hộ gia đình. Thứ hai, ngưỡng nghèo tương đối được đo bằng bình quân thu nhập của 40% dân số nghèo nhất và/hoặc thu nhập bình quân của 10 hoặc 20% dân số nghèo nhất.

Để khắc phục nhược điểm của các thước đo tiêu chuẩn truyền thống về đói nghèo, các chỉ số mới đã được xây dựng nhằm xem xét các khía cạnh khác nhau của con người, từ đó đánh giá một cách toàn diện nhất về tình trạng đói nghèo bao gồm chỉ số đói nghèo của con người, chỉ số nghèo đa chiều. Các chỉ số này đánh giá được độ sâu của đói nghèo một cách toàn diện. Cụ thể, chỉ số đói nghèo con người (HPI) hay sau này được điều chỉnh là chỉ số nghèo đa chiều (MPI) được đưa ra trong Báo cáo Phát triển Con người năm 1997. Chỉ số đói nghèo con người được gọi là HPI-1 đã được giới thiệu cho các nước đang phát triển. HPI-1 bao gồm ba khía cạnh: (i) một cuộc sống lâu dài và khỏe mạnh; (ii) kiến thức; và (iii) mức sống tốt. Sau đó, HPI được thay thế bằng Chỉ số nghèo nghèo đa chiều (MPI). Chỉ số này được sử dụng lần đầu tiên trong UNDP về phát triển con người vào năm 2010 trong Báo cáo Phát triển và được phát triển bởi Oxford Po Poor & Human Development Initiative (OPHI), bổ sung nhiều khía cạnh về sự thiếu thốn một cách rõ ràng hơn. Do đó, sự thay đổi đo lường nghèo từ đơn chiều đến đa chiều là một lý thuyết quan trọng, tạo ra nhiều thuận lợi cho các nhà hoạch định chính sách. Chỉ số MPI xác định những thiếu hụt ở cấp hộ gia đình trong ba các khía cạnh như giáo dục, sức khỏe và mức sống. Tuy nhiên, MPI là mức trung bình của những thiếu thốn nghiêm trọng mà người nghèo phải trải qua và nó không thể đánh giá sự bất bình đẳng giữa những người nghèo.

Trên thực tế khi nghiên cứu, việc khai thác số liệu để phục vụ cho việc nghiên cứu một số biến như MPI hay HPI để đo lường tỷ lệ đói nghèo và so sánh chúng giữa các khu vực hoặc các quốc gia gặp rất nhiều hạn chế. Đặc biệt là các chỉ số liên quan đến mức độ tiêu chuẩn sống của người dân thể hiện mức đói nghèo tuyệt đối hoặc tương đối của mỗi quốc gia. Các chỉ số này thường không được cập nhật số liệu thường xuyên. Ở một số quốc gia, thậm chí thống kê tỷ lệ đói nghèo dưới chuẩn 10 năm một lần hay các quốc gia có dân số ít hầu như không thực hiện thống kê về những tỷ lệ liên quan đến đói nghèo, dẫn đến việc thiếu hụt dữ liệu trong thời điểm hiện tại. Vì vậy theo quan điểm của tác giả, tiến hành kiểm định mối quan hệ bằng mô hình thực nghiệm với số liệu thiếu sẽ không thể đưa ra được kết quả chính xác, để có thể đề xuất các chính sách


khuyến nghị nhằm tăng cường tác động tích cực của hội nhập tài chính đến quá trình giảm nghèo.

1

Sau khi có kết quả kiểm định về mối tương quan là chặt chẽ của chỉ số khoảng cách đói nghèo và HDI trong một mẫu gồm 48 các quốc gia đang phát triển trong năm 2016 (được trình bày trong chương 4), chỉ số phát triển con người (HDI) đã được lựa chọn làm biến đại diện cho đói nghèo trong nghiên cứu thực nghiệm để khắc phục những hạn chế về sự thiếu hụt trong việc thu thập dữ liệu của các chỉ số MPI, chỉ số tính theo đầu người hay chỉ số khoảng cách đói nghèo. Chỉ số này phản ánh những khía cạnh khác nhau trong quá trình phát triển của con người (Fosu 2007). Công thức HDI được trình bày như sau:

𝐻𝐷𝐼 = (𝐼𝑆ứ𝑐 𝑘ℎỏ𝑒

+ 𝐼𝑇ℎ𝑢 𝑛ℎậ𝑝

+ 𝐼𝐺𝑖á𝑜 𝑑ụ𝑐

) 3


Trong đó I là chỉ số tính theo công thức của sức khỏe, thu nhập và giáo dục

Theo quan điểm giảm nghèo bền vững và sâu sắc, HDI được xây dựng dựa trên 3 yếu tố sức khoẻ, tri thức và thu nhập. HDI là một thước đo tóm tắt về thành tích trung bình 3 khía cạnh chính của sự phát triển con người. HDI là giá trị trung bình hình học của các chỉ số chuẩn hóa cho mỗi kích thước trong ba kích thước. Kích thước sức khỏe được đánh giá bằng tuổi thọ trung bình khi sinh, bình quân học vấn được đo bằng số năm đi học của người lớn từ 25 tuổi trở lên và số năm đi học dự kiến của trẻ em trong độ tuổi đi học, và mức sống được đo bằng tổng thu nhập quốc dân trên đầu người. HDI sử dụng logarit của thu nhập, để phản ánh tầm quan trọng giảm dần của thu nhập khi GNI tăng. Điểm số cho ba chỉ số thứ nguyên HDI sau đó được tổng hợp thành một chỉ số tổng hợp bằng cách sử dụng giá trị trung bình hình học. Trong nghiên cứu của Uttama (2015), tác giả đã sử dụng HDI làm biến đại diện cho đói nghèo khi nghiên cứu mối quan hệ của FDI và giảm nghèo ở các nước Đông Nam Á trong giai đoạn 1995-2011. Tương tự, Gohou & Soumare (2012) đã phân tích tác động của FDI đến đói nghèo ở 52 quốc gia châu Phi từ năm 1990 đến năm 2007, sử dụng HDI và GDP bình quân đầu người là biến giải thích cho đói nghèo.

Tóm lại, mỗi chỉ số đo lường tình trạng đói nghèo có những ưu điểm và hạn chế riêng. Căn cứ vào mức độ sẵn có của dữ liệu thu thập, các chỉ số nghèo đa chiều (MPI), chỉ số tính theo đầu người (headcount index) và chỉ số khoảng cách đói nghèo được sử dụng trong phần đánh giá định tính về thực trạng mức độ đói nghèo và tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo ở các nước đang phát triển khu vực châu Á trong giai đoạn nghiên cứu. Trong khi đó, HDI với những ưu điểm về mặt ý nghĩa và về mặt dữ liệu được sử dụng đo lường tình trạng đói nghèo trong nghiên cứu thực nghiệm.


2.3. Tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo

Tác động, bao gồm cả tích cực và tiêu cực, của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo của các nước cũng được nghiên cứu và đánh giá khác nhau tùy theo các trường phái khác nhau. Tuy nhiên, sự thống nhất của các trường phái được tập trung ở các kênh tác động, bao gồm: (1) kênh tăng trưởng kinh tế; (2) kênh khủng hoảng tài chính; (3) kênh tín dụng và phát triển tài chính. Nội dung tiếp theo của luận án sẽ trình bày sự tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo của các nước qua các kênh nói trên theo quan điểm của các trường phái kinh tế cơ bản như sau.

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học Tân cổ điển, hội nhập tài chính góp phần huy động tiết kiệm và phân bổ vốn cho năng suất cao hơn. Bằng cách này, hội nhập tài chính làm tăng trưởng kinh tế. Sự tăng trưởng kinh tế này làm tăng thu nhập và do đó giảm nghèo. Tuy nhiên, Fry (1995) lại kết luận rằng hội nhập tài chính dẫn đến giải phóng thị trường tín dụng sẽ cải thiện phân phối thu nhập và đói nghèo. Nói cách khác, các dịch vụ tài chính và tín dụng mà hội nhập tài chính mang lại có thể góp phần xoá đói giảm nghèo. Người nghèo có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn vốn hơn để kinh doanh, sản xuất, góp phần tạo thu nhập. Bên cạnh đó, nhiều kết luận chỉ ra rằng thông qua khủng hoảng, hội nhập tài chính tác động đến tình trạng đói nghèo. Ở một số quốc gia, quá trình hội nhập thị trường tài chính đã diễn ra rất nhanh, bỏ qua nhiều giai đoạn trong vấn đề cải cách thể chế, làm tăng sự biến động và dễ bị tổn thương trước khủng hoảng tài chính (Arestis & Glickman, 2002). Người nghèo có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn từ những khủng hoảng như vậy. Như vậy, hội nhập tài chính tác động đến tình trạng đói nghèo không những thông qua kênh tăng trưởng mà còn thông qua kênh khủng hoảng và kênh tín dụng và phát triển tài chính.

2.3.1. Tác động của hội nhập tài chính đến tình trạng đói nghèo thông qua kênh tăng trưởng kinh tế

Đầu tiên, thông qua tăng trưởng kinh thế, hội nhập tài chính có thể ảnh hưởng đến đói nghèo. Rõ ràng, sự tồn tại và tính chặt chẽ của mối liên hệ giữa hội nhập tài chính và tình trạng đói nghèo phụ thuộc vào sự tồn tại của hai liên kết trung gian, thứ nhất, hội nhập tài chính và tăng trưởng, thứ hai, giữa tăng trưởng và đói nghèo. Kênh đặc biệt này có thể được coi là dựa trên lý thuyết tự do hóa tài chính được phát triển ban đầu bởi McKinnon & Shaw (1973). Trước tiên, luận án tìm hiểu mối quan hệ giữa hội nhập tài chính và tăng trưởng kinh tế, tiếp đó là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tình trạng đói nghèo.

2.3.1.1. Tác động của hội nhập tài chính đến tăng trưởng kinh tế

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/06/2023