Các Công Trình Nghiên Cứu Trong Nước 45061

19

Các đánh giá nhằm phát huy và tạo điều kiện cho các hoạt động đầu tư được tập trung vào các ích lợi tài chính để thúc đẩy FDI trong các ngành và khu vực, bao gồm các khu vực kinh tế đặc biệt; dễ dàng bảo vệ các yêu cầu; tạo thuận lợi cho các quy trình được phê chuẩn và đẩy nhanh tiến độ dự án bằng sáng chế.

Đầu tư nước ngoài vào Low-carbon cũng bao gồm FDI phục vụ cho việc tiếp cận công nghệ low-carbon, các quy trình và sản phẩm. Loại hình đầu tư nước ngoài Low-carbon có thể kể đến, đó là: giới thiệu quy trình low-carbon làm giảm lượng phát thải trong quá trình sản xuất hàng hóa. Điều này bao gồm việc nâng cấp các hoạt động hợp tác xuyên quốc gia và các DN liên quan cùng chuỗi giá trị toàn cầu của họ.

Các sản phẩm và dịch vụ low-carbon giảm thiểu lượng phát thải CO2 trong khi sử dụng. Các sản phẩm low-carbon bao gồm ô tô điện, các sản phẩm tiết kiệm điện năng và các hệ thống giao thông tích hợp. Các dịch vụ low- carbon có thể kể đến là các giải pháp công nghệ tái cấu trúc các quy trình hạn chế lượng phát thải tại các DN địa phương.

Nhìn rộng ra khỏi các hoạt động đầu tư nước ngoài, thì đầu tư nước ngoài low-carbon đang và sẽ trở nên cần thiết. Hoạt động này đưa ra những lợi thế và lợi ích trong từng gói đầu tư FDI, đó là tiếp cận công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong hiệu quả sử dụng năng lượng và các yếu tố đầu vào khác nữa, đồng thời là các cơ hội xuất khẩu trong những ngành mũi nhọn.

Báo cáo đầu tư thế giới năm 2011 Non-equity Modes Of International Production And Development, [112] (Các chế độ không công bằng của sản phẩm quốc tế và trong phát triển dự đoán rằng, bất chấp cú sốc nào về kinh tế, dòng chảy FDI sẽ phục hồi trước khủng hoảng trong hơn hai năm tới. Thách thức này dành cho những nỗ lực để đạt được mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Dòng chảy FDI toàn cầu đã tăng lên tới 1,24 nghìn tỷ USD trong năm 2010, nhưng vẫn thấp hơn 15% so với mức trung bình trước khủng hoảng. Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc đánh giá rằng FDI toàn cầu sẽ phục hồi lại mức trước khủng hoảng trong năm 2011, tăng từ 1,4 lên

20

1,6 nghìn tỷ đô la Mỹ, và đạt tới mức trong năm 2007 vào 2013. Tín hiệu tích cực này, ngăn chặn những cú sốc không kỳ vọng vào nền kinh tế toàn cầu, có thể tăng lượng con số các nhân tố rủi ro đang tồn tại.

Các chính sách FDI tương tác liên tục với các chính sách ngành, quốc gia và xuyên quốc gia. Thách thức đặt ra là quản lý tương tác này để hai chính sách có thể cùng hoạt động cho sự phát triển chung. Xóa bỏ cân bằng giữa việc xây dựng khả năng tăng năng suất lao động nội địa và việc tránh chủ nghĩa bảo vệ thương mại và đầu tư, là chìa khóa cho tăng cường hợp tác quốc tế.

Báo cáo đầu tư thế giới năm 2012 Towards A New Generation Of Investment Policies, [114] (Định hướng một mô hình các chính sách mới trong đầu tư) chỉ ra những đóng góp tích cực trong sự hợp tác giữa các DN nước ngoài và các nền kinh tế nước chủ nhà, đáng chú ý là Châu Phi, trong điều kiện các giá trị gia tăng thêm như việc làm và thu nhập, thuế thu nhập, xuất khẩu và vốn. Các con số này cũng chỉ ra được các quốc gia nhận được ít hơn những đóng góp của FDI, xác nhận rằng vấn đề nằm trong tối ưu hóa tác động tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực của FDI.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.

Nhiều quốc gia đã không ngừng tự do hóa và thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nhiều ngành công nghiệp để đạt được tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2011. Cùng năm này, những chính sách thắt chặt mới cũng được đưa ra. Chúng phát huy tác dụng ngăn cản các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp, dược phẩm, công nghiệp khai khoáng.

Những tác động tích cực của FDI tới sự phát triển là không cụ thể. Và tác động của FDI cũng có cả tiêu cực. Như vậy rất cần thiết những chính sách nhằm giảm thiểu rủi ro trong hợp tác đầu tư. Mặc dù các luật và quy định là chỉ rõ trách nhiệm của nhà đầu tư, thì đồng thời cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động hợp tác, các quyết định và hành vi trong kinh doanh. Chính phủ có thể xây dựng một khung pháp lý tổng thể và tối ưu hóa lợi ích từ các hoạt động đầu tư này. Tính hiệu quả của các chính sách thể hiện thông qua các bên, bên nhận và bên xuất FDI, đều được tối ưu hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro.

Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc - 4

21

Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 2013 Global Value Chains: Investment And Trade For Development, [115] (Chuỗi giá trị toàn cầu: Phát triển đầu tư và thương mại), gần một phần ba thu nhập từ FDI toàn cầu đã được tái đầu tư tại các nước chủ nhà, hai phần ba còn lại được mang về nước đầu tư. Phần tái đầu tư này cao nhất tại các quốc gia đang phát triển, là một nguồn tài chính quan trọng.

Dòng chảy FDI tới các vùng lãnh thổ đang phát triển đã chứng kiến một sự sụt giảm nhẹ trong năm 2012, tuy nhiên cũng đã có một vài tín hiệu tích cực. Châu Phi đóng góp vào xu hướng này với sự tăng 5% của đầu tư nước ngoài lên tới 50 tỷ USD. Sự tăng trưởng của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung mở rộng vào ngành công nghiệp khai khoáng, sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành dịch vụ. Xu hướng dòng chảy FDI tiếp tục đổ vào các quốc gia có thu nhập thấp như Campuchia, Myanma và Việt Nam.

Các nhà hoạch định chính sách đầu tư quốc gia đang tăng cường thiết lập các chiến lược phát triển mới. Hầu hết các Chính phủ đều muốn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài như một công cụ để xây dựng năng lực hiệu suất và phát triển bền vững. Tại cùng thời điểm, rất nhiều các quốc gia đang củng cố môi trường pháp lý cho các nhà đầu tư nước ngoài, tao thêm nhiều các chính sách công nghiệp trong những ngành mũi nhọn, thắt chặt quản lý và giảm thiểu các hoạt động mua lại và sáp nhập. Tuy nhiên, bảo hộ luôn đi kèm rủi ro.

Nền kinh tế toàn cầu hiện nay được định hình bởi các chuỗi giá trị (GVCs), mà các loại hàng hóa, dịch vụ cơ bản được buôn bán theo quy trình sản xuất phân tán trên toàn cầu. Các chuỗi giá trị này được phối hợp bởi các công ty đa quốc gia (TNCs). Tuy nhiên, hoạt động của các chuỗi giá trị cũng không tránh khỏi những rủi ro. Những rủi ro này có thể được hạn chế bằng việc tạo ra nhiều hơn các giá trị. Thêm nữa, những tác động từ môi trường và xã hội bao gồm điều kiện làm việc, an toàn lao động có thể là tiêu cực.

Như vậy, các nhà hoạch định chính sách cần tạo được một khung pháp lý vừa có thể bảo vệ được nhà đầu tư, người lao động, và các bên liên quan, vừa giảm thiểu được những rủi ro thông qua việc không ngừng đổi mới và cải tiến

22

khoa học kỹ thuật, chất lượng lao động và một thị trường cởi mở. Trên hết, định hướng phát triển bền vững luôn đi kèm với các mục tiêu trong các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.

1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước

Xuất phát từ vai trò quan trọng của FDI đối với phát triển kinh tế - xã hội, ở Việt Nam kể từ năm 1987, khi Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên có hiệu lực, đã có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị về học thuật và tổng kết thực tiễn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam về thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

Những cuốn sách tiêu biểu về đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:

Tác giả Nguyễn Trọng Tuân trong cuốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở Việt Nam [14] đã làm sáng tỏ một số quan hệ bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài và một số tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam nói chung đặc biệt đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) (nói riêng). Trên cơ sở đó nêu ra một số kiến nghị mới về quan điểm, chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả cao đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ công cuộc CNH, HĐH trong thời gian tới.

Trần Xuân Tùng trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp [15] đã phân tích vai trò, vị trí khách quan của FDI đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, nêu bật những thành công cũng như những hạn chế chủ yếu trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI trong tình hình hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy thu hút mạnh hơn và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn ngoại lực quan trọng này. Ngoài ra, phần phụ lục cung cấp cho bạn những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về thu hút và sử dụng vốn FDI qua các kỳ đại hội.

Các tác giả Trần Quang Lâm và An Như Hải trong cuốn Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay [81], đã hệ thống hóa những vấn đề cơ bản về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, làm rõ vai trò quan trọng của thành phần kinh tế này

23

trong nền kinh tế nước ta và đề xuất các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế có

vốn FDI ở nước ta thời gian tới.

Tác giả Lê Xuân Bá trong Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam [1], đã trình bày và phân tích về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, vai trò của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế, cơ sở lý thuyết về tác động của FDI tới tăng trưởng, tác động của FDI tới tăng trưởng qua kênh đầu tư, tác động tràn của đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Các tác giả Võ Thanh Thu, Ngô Thị Ngọc Huyền và Nguyễn Cương trong cuốn Kỹ thuật đầu tư từ trực tiếp nước ngoài [82] đã cung cấp những chỉ dẫn khoa học và có hệ thống về kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài như vai trò của đầu tư quốc tế, các định chế quốc tế ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của Việt Nam, hỗ trợ phát triển chính thức - hình thức đầu tư quốc tế đặc biệt, đấu thầu quốc tế, chuyển giao công nghệ quốc tế, chuyển giao trong hoạt động đầu tư quốc tế, thẩm định dự án đầu tư, cơ chế quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam, các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, quy trình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam…

Tác giả Đỗ Đức Bình trong chuyên khảo Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) tại Việt Nam [2], đã trình bày từ quan niệm về đầu tư quốc tế đến khái niệm FDI, các TNCs, vai trò của TNCs trong nền kinh tế thế giới, kinh nghiệm thu hút đầu tư của TNCs tại một số nước. Qua nghiên cứu phân tích thực trạng thu hút FDI nói chung và từ TNCs nói riêng tại Việt Nam giai đoạn 1988 - 2004, trong cuốn sách đã khái quát một số đóng góp của FDI đến các mặt kinh tế - xã hội ở Việt Nam như tham gia tích cực vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, sản xuất và xuất khẩu, đa dạng hóa và nâng cấp thiết bị, công nghệ. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng chỉ ra một số tác động tiêu cực như mâu thuận với mục tiêu chiến lược chung và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam; lợi dụng ưu thế về vốn, công nghệ để thao túng trong các liên doanh, gây sức ép với cơ quan quản lý nhà nước. Từ đó, cuốn sách cũng đề

24

xuất các quan điểm, giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả FDI

của các TNCs cho Việt Nam.

Tác giả Hoàng Thị Bích Loan và các cộng sự trong cuốn Thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam [6], đã đề cập tới một số tác động tích cực của TNCs tới tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam như bổ sung vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế và DN trong hội nhập kinh tế quốc tế, tác động đến xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo việc làm, phát triển NNL, hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao trình độ công nghệ… Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập tới những tác động tiêu cực của FDI của các công ty xuyên quốc gia tới Việt Nam và nguyên nhân, đồng thời đề xuất một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả FDI của TNCs như cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tạo lập đối tác đầu tư trong nước, phát triển NNL.

Tác giả Đặng Hoàng Thanh Nga trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam [8], đã đề cập tới vấn đề thu hút FDI của các TNCs Hoa Kỳ vào Việt Nam giai đoạn 1995 - 2011, chỉ ra một số tác động tới nguồn vốn, tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xuất nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, tính lan tỏa toàn cầu, ảnh hưởng tới chính trị, môi trường. Từ đó đã nêu ra một số gợi ý chính sách về hoàn thiện môi trường đầu tư, công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư, tạo lập các đối tác liên kết, nâng cao chất lượng nhân lực nhằm tăng cường thu hút FDI của các TNCs của Hòa Kỳ vào Việt Nam.

Tác giả Nguyễn Tấn Vinh trong Đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh [23], từ trình bày khái quát một số vấn đề lý luận về FDI như khái niệm, đặc trưng, loại hình cùng khái niệm cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cuốn sách đã trình bày và phân tích các kênh ảnh hưởng của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành như tác động tới tăng trưởng kinh tế ngành; chuyển giao công nghệ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ngành; vai trò của FDI đối với nguồn

25

nhân lực, lao động; sự tương tác với vốn đầu tư trong nước; hiệu quả ngoại ứng từ năng suất; hiệu ứng xuất khẩu. Cuốn sách cũng phân tích thực trạng ảnh hưởng của FDI đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành công nghiệp của Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2001- 2010 và rút ra đánh giá về ảnh hưởng không đều của FDI tới tăng trưởng của các ngành trong cơ cấu kinh tế ngành nói chung và cơ cấu kinh tế của ngành công nghiệp trên địa bàn Thành phố nói riêng. Từ đó, cuốn sách đã đề cập tới một số vấn đề đặt ra đối với FDI trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của Thành phố Hồ Chí Minh như lao động trình độ cao, kết cấu hạ tầng, công nghiệp hỗ trợ, nguồn nguyên liệu, chiến lược thu hút FDI của Thành phố,… và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành thông qua FDI tại Thành phố Hồ Chí Minh như nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về FDI, cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện quy hoạch, thực hiện đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư đối với FDI tìm kiếm thị trường, liên kết vùng để thu hút FDI tìm kiếm nguồn tài nguyên; phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhân lực… để thu hút FDI tìm kiếm hiệu quả.

Tác giả Phùng Xuân Nhạ trong chuyên khảo Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Lý luận và thực tiễn [9], đã đề cập tới khái niệm, hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều lý thuyết luận giải về nguyên nhân hình thành đầu tư trực tiếp nước ngoài, bao gồm các lý thuyết truyền thống và các lý thuyết mới về quốc tế hóa sản xuất, phân tích các yếu tố ảnh hưởng tới FDI, các chính sách, biện pháp thu hút FDI tại Việt Nam. Qua phân tích thực trạng thu hút FDI của Việt Nam giai đoạn 1988 - 2011, trong cuốn sách đã trình bày những tác động của FDI tới sự phát triển của Việt Nam, biểu hiện thông qua những tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế, bổ sung vốn đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế, chuyển giao và phát triển công nghệ, phát triển NNL và tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, liên kết các ngành công nghiệp, các tác động khác, các tác động đặc biệt và tác động tới chủ quyền quốc gia. Trong phân tích về tác động của FDI, cuốn sách cũng đồng thời cũng chỉ ra một số ảnh hưởng không mong muốn như gia tăng tính phụ thuộc của nền kinh tế vào

26

FDI, ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái do sử dụng công nghệ lạc hậu, dẫn tới hình thành độc quyền, ngăn cản cạnh tranh, làm tăng khoảng cách giàu nghèo…Cuốn sách cũng cho rằng, mức độ tác động tích cực hoặc tiêu cực của FDI phụ thuộc vào chính sách và điều kiện phát triển của nước tiếp nhận FDI, từ đó đã đưa ra một số gợi ý về chính sách như tăng cường thu hút FDI khi khả năng tích lũy nội địa thấp, phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ, đào tạo, quy định chặt chẽ cụ thể đối với FDI trong các lĩnh vực dinh dưỡng, y tế, dược phẩm, quảng cáo, có chính sách phù hợp về khắc phục chảy máu chất xám, bóc lột lao động quá mức, bảo hộ thị trường…

Bên cạnh đó, đã có nhiều LATS kinh tế tập trung nghiên cứu về đầu tư trực

tiếp nước ngoài và tác động của nó tới phát triển kinh tế xã hội, như:

Trần Anh Phương trong luận án Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của các nước trong nhóm G7 vào Việt Nam, đã phân tích đánh giá kết quả thu hút FDI từ các nước G7 vào Việt Nam giai đoạn 1988- 2002, chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và các biện pháp giải quyết [11].

Ngô Thu Hà trong luận án Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc và khả năng vận dụng tại Việt Nam, đã đánh giá tác động hai mặt của FDI. Bên cạnh những tác động tích cực như bổ sung nguồn vốn, thúc đẩy ứng dụng công nghệ, phát triển nhân lực, kinh nghiệm quản lý, thúc đẩy ngoại thương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, FDI còn có những tác động tiêu cực như làm giảm tỷ lệ tích lũy và đầu tư nội địa, gây sức ép phá sản DN trong nước, tạo ra sự phụ thuộc về công nghệ, chuyển tới nước nhập khẩu FDI những công nghệ gây ô nhiễm môi trường, gây chảy máu chất xám từ các DN khác tới DN FDI [ 3].

Bùi Thuý Vân trong luận án Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở vùng đồng bằng Bắc bộ, đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng ngoại thương của nước nhập khẩu FDI. Tuy nhiên, tác động của FDI tới tăng trưởng xuất khẩu có tính hai mặt, nếu như FDI thay thể có mục tiêu mở rộng tiêu thụ ở nước ngoài có tác động không

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/11/2022