CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH
5.1. Kết quả và những đóng góp chính của nghiên cứu
5.1.1. Kết quả nghiên cứu chính
Thứ nhất, luận án cung cấp bằng chứng thực nghiệm về các yếu tố vĩ mô và vi mô tác động đến mức độ cạnh tranh ngân hàng. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của các ngân hàng thương mại Việt Nam giai đoạn 2008-2016. Tác giả sử dụng chỉ số Lerner để đo lường mức độ cạnh tranh ngân hàng và các ước lượng phổ biến trong hồi quy dữ liệu bảng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các năm khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007- 2008, mức độ cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy các yếu tố làm gia tăng mức độ cạnh tranh của các ngân hàng bao gồm Quy mô vốn chủ sở hữu, dư nợ cho vay khách hàng, quản trị chi phí, quy mô ngân hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu có tác động giảm mức độ cạnh tranh.
Thứ hai, luận án đã khảo sát thực nghiệm mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam bằng Zscore, kiểm định sự khác biệt trong mức độ ổn định tài chính của các nhóm ngân hàng với hình thức sở hữu khác nhau và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam trong điều kiện bình thường cũng như trong điều kiện có khủng hoảng. Kết quả nghiên cứu cho thấy Zscore bình quân của các NHTM Việt Nam thấp hơn so với khu vực và thấp hơn nhiều so với các nước Châu Âu và OECD. Zscore của các NHTM Việt Nam nói chung và Zscore của nhóm NHTM cổ phần có xu hướng giảm qua các năm 2008-2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam là khá thấp, mức độ ổn định tài chính của nhóm NHTM cổ phần có xu hướng suy giảm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng các nhân tố có hướng tác động cùng chiều đến độ ổn định tài chính của NHTM là tỷ lệ vốn chủ sở hữu bình quân trên tổng tài sản bình quân, tỷ lệ dư nợ vay trên tổng tài sản, tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động, tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu, và tỷ lệ lạm phát.
Các nhân tố có tác động ngược chiều đến mức độ ổn định tài chính của NHTM là quy mô ngân hàng, và tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, luận án xem xét tác động của mức độ cạnh tranh đến sự ổn định nhằm kiểm định hai quan điểm “cạnh tranh - ổn định” và “cạnh tranh – dễ vỡ” cho ngân hàng thương mại Việt Nam. Chỉ số Lerner được sử dụng để đo lường mức độ cạnh tranh của các ngân hàng; mức độ ổn định của ngân hàng thương mại Việt Nam được đo lường thông qua Zscore. Bằng phương pháp DGMM, chuyên đề nghiên cứu đã thực hiện ước lượng các mô hình nghiên cứu cần thiết. Kết quả nghiên cứu của luận án ủng hộ quan điểm “cạnh tranh - ổn định”. Cụ thể khi mức độ cạnh tranh gia tăng sẽ giúp cho ngân hàng thương mại Việt Nam ổn định hơn tuy nhiên nếu mức độ cạnh tranh vượt quá một ngưỡng nhất định sẽ gây ra sự bất ổn. Điều này hàm ý mối quan hệ giữa cạnh tranh và ổn định của ngân hàng thương mại Việt Nam là mối quan hệ phi tuyến có hình chữ U ngược. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy khi cạnh tranh gia tăng cũng kéo theo sự gia tăng của tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ do các ngân hàng chịu áp lực cạnh tranh buộc phải nới lỏng các điều kiện cho vay. Kết quả này phần nào cũng cho thấy quan điểm “cạnh tranh – dễ vỡ” có thể xảy ra trong trung và dài hạn. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án này cũng cho thấy trong điều kiện khủng hoảng tài chính sự bất ổn cũng như nợ xấu của các ngân hàng thương mại Việt Nam đều gia tăng. Đồng thời, trong điều kiện khủng hoảng, cạnh tranh có thể gây ra sự bất ổn định cho ngân hàng thương mại Việt Nam.
5.1.2. Đóng góp chính của luận án
Có thể bạn quan tâm!
- Đo Lường Và Phân Tích Các Yếu Tố Tác Động Đến Mức Độ Ổn Định Tài Chính Của Các Nhtm Việt Nam Giai Đoạn 2008-2016
- Zscore Của Các Nhtm Việt Nam Bình Quân Giai Đoạn 2008-2016 Theo Hình Thức Sở Hữu
- Tác Động Của Cạnh Tranh Tới Sự Ổn Định Tài Chính Trong Hệ Thống Các Nhtm Việt Nam Trong Giai Đoạn 2008 – 2016
- Danh Sách 24 Nhtmcp Tác Giả Phân Tích Và Đánh Giá
- Tính Toán Năng Lực Cạnh Tranh Và Sự Ổn Định Tài Chính Của Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Lerner Của Các Nhtm Việt Nam Năm 2008-2016
- Tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 18
Xem toàn bộ 156 trang tài liệu này.
Đã có một vài nghiên cứu trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia phát triển, về cạnh tranh, ổn định tài chính và tác động của cạnh tranh đến sự ổn định tài chính của các ngân hàng. Tuy nhiên, tại Việt Nam số lượng nghiên cứu còn hạn chế khi đa số các đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu và đánh giá riêng lẻ về năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam hoặc mức độ ổn định tài chính của NHTM Việt Nam. Đây là nghiên cứu mới, mang tính định lượng về tác động của cạnh tranh đến sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam.
Luận án nghiên cứu dữ liệu cập nhật đến thời điểm gần nhất – cuối năm 2016 là cơ sở đánh giá mới nhất đối với vấn đề cạnh tranh và ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam, một đại diện cho quốc gia đang phát triển hoặc là thị trường cận biên (frontier market) trong đó hệ thống tài chính phát triển chủ yếu dựa trên hệ thống ngân hàng.
Luận án đo lường và đánh giá mức độ cạnh tranh, mức độ ổn định tài chính và tác động của cạnh tranh tới sự ổn định của các NHTM Việt Nam trong điều kiện bình thường và trong điều kiện có khủng hoảng.
Luận án xem xét tác động của các yếu tố nội tại bên trong các ngân hàng, và cả tác động của các yếu tố bên ngoài thuộc môi trường vĩ mô đến mức độ cạnh tranh và đến mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam.
Thêm vào đó, luận án cũng so sánh với các nghiên cứu trước trong và ngoài nước có cùng phương pháp tính toán để đánh giá mức độ cạnh tranh và mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam qua các năm; đồng thời phân tích, so sánh mức độ cạnh tranh và mức độ ổn định tài chính của các nhóm ngân hàng với các loại hình sở hữu khác nhau.
Việc sử dụng phương pháp hồi quy DGMM có thể khắc phục hiện tượng nội sinh mà mô hình tiềm ẩn để có được kết quả ước lượng tin cậy hơn, từ kết quả đó, nghiên cứu đưa ra nhận định phù hợp về tác động của cạnh tranh đối với sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam.
Kết quả của luận án bổ sung các bằng chứng thực nghiệm về mức độ cạnh tranh và sự ổn định tài chính của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2016, đồng thời ủng hộ mối quan hệ phi tuyến giữa “cạnh tranh - ổn định” cho hệ thống các NHTM Việt Nam.
Kết quả của nghiên cứu giúp đo lường được con số cụ thể về mức độ cạnh tranh, mức độ ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam, giúp cho các nhà quản trị ngân hàng và cơ quan quản lý nhà nước hiểu rõ hơn về hiện trạng mức độ cạnh tranh và mức độ ổn định tài chính, các yếu tố tác động, chiều hướng và mức độ tác
động đến mức độ cạnh tranh, mức độ ổn định tài chính của các ngân hàng giai đoạn 2008 – 2016.
Từ kết quả phân tích, các nhà quản trị Ngân hàng và cơ quan nhà nước có thể xây dựng những chiến lược, giải pháp và những chính sách điều hành phù hợp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam và góp phần đảm bảo sự ổn định tài chính của các NHTM tại Việt Nam.
5.2. Hàm ý chính sách nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và sự ổn định tài chính các NHTM Việt Nam
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án rút ra một số hàm ý chính sách như
sau:
5.2.1.Đối với các nhà quản trị NHTM Việt Nam
Thứ nhất, về hoạt động tín dụng, dưới áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng cần tránh nới lỏng các điều kiện cho vay để cạnh tranh giành thị phần, khách hàng. Các NHTM cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, và cần có các biện pháp tích cực xử lý nợ xấu, trích lập dự phòng, thu hồi nợ từ khách hàng, gia tăng chất lượng tài sản cho vay, từ đó tối ưu hóa hiệu quả hoạt động, góp phần nâng cao sức cạnh tranh và sự ổn định của các ngân hàng. Chính sách tín dụng cũng cần phải cân nhắc rủi ro và tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo phù hợp, phải đảm bảo khả năng thu hồi vốn và cần theo dõi bám sát tình hình sau cho vay, tăng cường kiểm tra mục đích sử dụng vốn đối với các trường hợp được đánh giá là rủi ro cao hơn để có biện pháp can thiệp cần thiết. Do lợi nhuận của các NHTM phụ thuộc phần lớn vào hoạt động tín dụng, thu nhập từ hoạt động tín dụng có ảnh hưởng lớn đối với kết quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Các NHTM cần cân nhắc duy trì một tỷ lệ cho vay cao trên tổng tài sản nhằm duy trì mức độ ổn định tài chính cao cho các ngân hàng.
Thứ hai, cần tăng cường vốn chủ sở hữu của các NHTM. Khi ngân hàng mở rộng hoạt động, tổng tài sản và quy mô ngân hàng tăng lên, NHTM cần chủ động gia tăng tương ứng nguồn vốn chủ sở hữu để đảm bảo tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản không bị sụt giảm. Khi tỷ lệ vốn chủ sở hữu bình quân trên tổng tài sản
bình quân tăng sẽ góp phần nâng cao mức độ ổn định tài chính của NHTM. Quy mô vốn lớn hơn giúp cho khả năng ổn định tài chính cao hơn. Bên cạnh đó, vốn của NHTM được xem là chiếc “đệm” để đối phó có hiệu quả với các cú sốc từ bên ngoài, bảo đảm một sự an toàn trong hoạt động kinh doanh, đồng thời giúp hỗ trợ cho hoạt động mở rộng thị phần, mở các chi nhánh, phòng giao dịch, gia tăng khả năng cạnh tranh. Các NHTM có thể tăng vốn thông qua nhiều kênh khác nhau như: cổ phần hóa, phát hành thêm cổ phiếu, sáp nhập, hợp nhất các NHTM.
Thứ ba, các NHTM cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng quản trị điều hành nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh của ngân hàng an toàn, hiệu quả, gia tăng giá trị cho ngân hàng, cho khách hàng, và cho nền kinh tế. Các ngân hàng cần chú trọng đầu tư cho hoạt động đào tạo, thông qua sử dụng nguồn lực nội bộ cũng như các chương trình đào tạo bên ngoài nhằm phổ biến các quy trình, chính sách, các kỹ thuật, nghiệp vụ và các chương trình về quản trị rủi ro, quản trị điều hành theo các quy định của quốc gia và theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Thứ tư, về sản phẩm, các ngân hàng cần có những giải pháp để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, gia tăng hiệu quả hoạt động. Ngày nay, nhu cầu của khách hàng đổi với sản phẩm và dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng và phong phú, do đó các ngân hàng cần phát triển và cung cấp sản phẩm đáp ứng các nhu cầu này. Đồng thời có những giải pháp tăng cường hiệu quả công tác Marketing thông qua xác định đúng phân khúc thị trường và đối tượng khách hàng mục tiêu, từ đó có biện pháp phù hợp để tiếp cận khách hàng, hoàn thiện hệ thống danh mục sản phẩm, gia tăng tiện ích cho các sản phẩm và xây dựng các chính sách ưu đãi và khuyến mãi phù hợp nhằm phục vụ tốt các đối tượng khách hàng khác nhau.
Thứ năm, các ngân hàng cần chú trọng đầu tư phát triển công nghệ hiện đại. Công nghệ kỹ thuật hiện đại chính là tiền đề cho việc triển khai các loại hình dịch vụ mới, cập nhật thông tin nhanh chóng và đầy đủ, đồng thời giảm thiểu rủi ro. Mặt khác, công nghệ hiện đại còn giúp ngân hàng giảm chi phí, giảm thời gian giao dịch
mà vẫn đảm bảo độ an toàn cho khách hàng, giúp bảo vệ khách hàng một cách hữu hiệu. Các ngân hàng cần giao lưu, hợp tác để học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng trong khu vực và quốc tế. Liên kết với các công ty cung ứng dịch vụ để phát triển đa dạng các loại hình sản phẩm trên nền tảng khoa học – công nghệ hiện đại. Ngoài ra, các ngân hàng cần đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, bảo mật tốt. Đồng thời, xây dựng cơ chế quản lý và giám sát chặt chẽ, xử lý nhanh chóng và thỏa đáng cho khách hàng.
Thứ sáu, về hiệu quả quản trị chi phí, các nhà quản trị điều hành ngân hàng trong hoạt động kinh doanh cần quản lý tốt các khoản chi phí và các khoản thu nhập của ngân hàng. Điều này sẽ giúp các ngân hàng nâng cao năng lực cạnh tranh từ đó góp phần gia tăng sự ổn định của ngân hàng. Bên cạnh đó, việc gia tăng đầu tư một cách có hiệu quả cho các hoạt động quản trị có thể giúp các ngân hàng giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động. Bên cạnh đó, điều này sẽ giúp các ngân hàng thu hút những nhà quản lý giỏi cũng như giữ chân và khuyến khích các nhà quản lý hiện tại làm việc tốt hơn. Từ đó, giúp ngân hàng gia tăng năng lực cạnh tranh và sự ổn định tài chính.
Thứ bảy, cần chủ động đối phó với các biến động vĩ mô của nền kinh tế do các biến số này thường nằm ngoài tầm kiểm soát của các ngân hàng thương mại. Điều này không những giúp ngân hàng chủ động ứng phó với những cú sốc của nền kinh tế nhằm bảo toàn tài sản của ngân hàng mà còn dự báo được các khoản trích lập dự phòng rủi ro, có thể đưa ra chiến lược phát triển hợp lý, vừa đảm bảo khả năng sinh lời, vừa bảo toàn được các tài sản có của ngân hàng.
5.2.2.Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Thứ nhất, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có những biện pháp khuyến khích và thúc đẩy các NHTM thực hiện cạnh tranh lành mạnh trong toàn hệ thống. Về hoạt động cơ cấu các NHTM, bên cạnh việc thu hẹp số lượng ngân hàng bằng cạnh tranh, sàng lọc và tự đào thải, NHNN cần tạo môi trường cạnh tranh thật sự minh bạch và bình đẳng giữa các ngân hàng.
Thứ hai, song song với việc tạo ra môi trường khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần gia tăng việc kiểm tra, giám sát chất lượng tín dụng đi đôi với kiểm soát tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng thương mại nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Việc giám sát cần được thực hiện một cách thương xuyên và định kỳ. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần áp dụng các biện pháp giám sát hiện đại theo chuẩn quốc tế.
Thứ ba, NHNN cần có các giải pháp nhằm hỗ trợ việc đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực công nghệ ngân hàng của hệ thống NHTM. Có thể thấy, việc phát triển công nghệ ngân hàng là hết sức cần thiết trong tiến trình cạnh tranh giữa các ngân hàng cũng như hội nhập và cạnh tranh với các ngân hàng quốc tế. Trong khi hầu hết các ngân hàng quốc tế đã được thành lập lâu năm với một nền tảng công nghệ hết sức tiên tiến, thì đối với một nền kinh tế mới như Việt Nam cần phải mất nhiều thời gian mới có thể theo kịp. Điều đó, đòi hỏi không chỉ sự cố gắng của hệ thống ngân hàng trong nước mà còn phải có sự giúp đỡ và hỗ trợ từ phía Chính phủ.
Thứ tư, NHNN cũng cần chú trọng phát triển cơ chế chính sách đối với các dịch vụ, phương tiện thanh toán mới và các hệ thống thanh toán, tạo cơ sở phát triển thanh toán trên bề rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán liên ngân hàng cũng như thanh toán bù trừ.
5.3. Hạn chế của nghiên cứu và đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo.
Mặc dù có những đóng góp nhất định cả về lý thuyết lẫn thực tiễn, luận án cũng có những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, vì hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn tác giả nghiên cứu từ 2008-2016, trong đó giai đoạn 2011-2015 là giai đoạn hệ thống NHTM Việt Nam đang thực hiện đề án cơ cấu lại nên có nhiều trường hợp ngân hàng yếu kém và đang trong giai đoạn hợp nhất, sáp nhập, bị kiểm soát đặc biệt nên hạn chế về số liệu, mẫu quan sát nhỏ. Xuất phát từ tính đặc thù này nên nghiên cứu cũng không có điều kiện xem xét dữ liệu của các ngân hàng trước và sau sáp nhập. Để khắc phục được hạn chế này, tác giả đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo là nghiên cứu trong giai đoạn dài hơn, phạm vi rộng hơn, có thể sử dụng dữ liệu báo cáo tài chính quý
của các NHTM, hoặc sử dụng thêm số liệu của giai đoạn sau cơ cấu.
Thứ hai, mặc dù tác giả tìm thấy bằng chứng về tác động của cạnh tranh đến sự ổn định của các NHTM ủng hộ cho cả hai quan điểm “cạnh tranh - ổn định” và “cạnh tranh – dễ vỡ” tuy nhiên nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng rõ nét về sự thay đổi của tác động này giữa các nhóm ngân hàng có hình thức sở hữu khác nhau. Ngoài ra, tác động này cũng có thể bị chi phối trong điều kiện thể chế khác nhau giữa các quốc gia. Do đó, để khắc phục hạn chế này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể mở rộng phạm vi trên bình diện quốc tế giữa các nhóm ngân hàng tại các quốc gia khác nhau. Thông qua đó có thể xem xét tác động này dưới điều kiện thể chế khác nhau ở các quốc gia.
Kết luận chương 5
Trong chương 5, tác giả đã trình bày những kết quả nghiên cứu chính mà luận án đã chỉ ra được. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này, luận án đã có những đóng góp nhất định cả trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về đo lường mức độ cạnh tranh, sự ổn định tài chính của ngân hàng thương mại Việt Nam, các yếu tố tác động đến mức độ cạnh tranh và sự ổn định tài chính, và tác động của cạnh tranh tới sự ổn định tài chính của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2016.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận án cũng đã đưa ra và luận giải một số hàm ý chính sách đối với các nhà quản trị NHTM Việt Nam, các cơ quan quản lý Nhà nước.
Mặc dù luận án đã đạt được mục tiêu nghiên cứu nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế khách quan do giới hạn về thời gian nghiên cứu cũng như dữ liệu ngân hàng ở thời điểm hiện tại. Đây cũng là cơ sở để các hướng nghiên cứu tiếp theo có thể tiếp tục phát triển từ luận án.