Sản Xuất, Lắp Đặt Thiết Bị Truyền Hình, Viễn Thông;

pháp của NLĐ, các quốc gia đã giới hạn ngành nghề, công việc được phép tiến hành CTLLĐ, tùy thuộc vào sự phát triển thị trường lao động cũng như điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi nước.

Tại Đức, việc cho thuê lao động đã được khẳng định trong Luật về Kinh doanh cho thuê lao động:

“Việc cho thuê lao động là việc chuyển giao lao động giữa những NSDLĐ trong cùng một ngành kinh tế nhằm tránh việc phải sử dụng lao động ngắn hạn hoặc để tránh việc sa thải, nếu thỏa ước lao động tập thể có giá trị áp dụng cho cả người chuyển giao lao động lẫn người được chuyển giao lao động; là việc chuyển giao lao động giữa các doanh nghiệp của một tập đoàn, nếu NLĐ tạm thời không làm việc cho NSDLĐ của mình hoặc chuyển giao lao động ở nước ngoài nếu NLĐ thuê được đưa đến làm việc tại một liên doanh được thành lập trên cơ sở thỏa thuận giữa Đức và quốc gia khác mà NSDLĐ tham gia vào liên doanh này” (Khoản 3 Điều 1)

Định nghĩa này đã nêu lên một cách khái quát nội dung của hoạt động cho thuê lao động là sự chuyển giao lao động giữa những NSDLĐ, đồng thời, giới hạn phạm vi và mục đích của hoạt động này. Với mục đích nhằm tránh sa thải hay ký hợp đồng ngắn hạn với NLĐ, phạm vi thực hiện hoạt động cho thuê lao động (chuyển giao lao động) chỉ áp dụng đối với những NSDLĐ thuộc cùng ngành kinh tế hoặc cùng một liên doanh.

Tuy nhiên, Luật về Kinh doanh cho thuê lao động của Đức đã đưa ra những trường hợp ngoại lệ, mặc dù có sự chuyển giao lao động nhưng không được xem là CTLLĐ, bao gồm:

(i) Trường hợp cử lao động vào một liên doanh hợp tác chung để xây dựng một xưởng không coi là cho thuê lao động nếu NSDLĐ là thành viên của liên doanh đó và hợp đồng tập thể của một ngành kinh tế có giá trị áp dụng đối với tất cả thành viên của liên doanh và trên cơ sở của hợp đồng hợp tác, tất cả thành viên của liên doanh có nghĩa vụ tự mình thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng;

(ii) Đối với NSDLĐ không có trụ sở kinh doanh tại một nước khác là thành viên của không gian kinh tế châu Âu, việc cử NLĐ vào liên doanh của một hợp tác chung để xây dựng một xưởng cũng không coi là cho thuê lao động, nếu hợp đồng tập thể của ngành kinh tế tương ứng của Đức không có giá trị áp dụng đối với NSDLĐ đó và đối với các thành viên khác của liên doanh;

(iii) Trường hợp NSDLĐ chuyển giao NLĐ cho người khác sử dụng và không gánh chịu các nghĩa vụ thông thường của NSDLĐ và cũng không đảm nhận các rủi ro của NSDLĐ thì suy đoán rằng, người chuyển giao lao động hoạt động với tư cách người môi giới lao động. Tuy nhiên, đây là một đặc điểm giúp chúng ta phân biệt hoạt động CTLLĐ với các hoạt động cung ứng lao động khác như môi giới lao động (Điều 1)

Theo pháp luật Đức, ngành xây dựng bị ràng buộc bởi những hạn chế nhất định. Theo đó, không được phép cho thuê lao động có tính chất kinh doanh trong các xí nghiệp của ngành xây dựng để thực hiện các công việc mà NLĐ vẫn thường làm. Việc cho thuê này chỉ được cho phép trong 03 trường hợp:

(i) giữa xí nghiệp của ngành xây dựng với các xí nghiệp khác nếu các xí nghiệp này xác định điều này trong thỏa ước lao động tập thể được tuyên bố có giá trị bắt buộc chung;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

(ii) giữa các xí nghiệp thuộc ngành xây dựng nếu xí nghiệp cho thuê chứng minh được rằng từ ít nhất từ 03 năm nay các xí nghiệp này chịu sự ràng buộc chung của những thỏa ước lao động tập thể khung và tầng lớp xã hội cùng loại;

(iii) đối với các xí nghiệp thuộc ngành xây dựng có trụ sở kinh doanh tại một nước thành viên khác của không gian kinh tế Châu Âu thì việc cho thuê lao động có tính chất kinh doanh cũng được phép nếu các xí nghiệp nước ngoài này không chịu sự điều chỉnh của các thỏa ước lao động tập thể

So sánh pháp luật Việt Nam về cho thuê lao động với một số nước trên thế giới - 7

khung và tầng lớp xã hội hoặc không tuyên bố các thỏa ước này có giá trị áp dụng chung nếu họ chứng minh được từ 03 năm trở lại đây xí nghiệp thực hiện chủ yếu các hoạt động thuộc phạm vi áp dụng của thỏa ước lao động tập thể khung và tầng lớp xã hội mà người thuê lao động là đối tượng áp dụng của các thỏa ước đó.

Như vậy, có thể thấy, ở Đức, việc CTLLĐ giữa những NSDLĐ chỉ được tiến hành trong cùng một ngành kinh tế, giữa các doanh nghiệp của cùng một tập đoàn hoặc cùng một liên doanh, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Điều này càng khẳng định, ở Đức, CTLLĐ là một ngành nghề kinh doanh bị giới hạn trong một phạm vi ngành nghề, công việc nhất định.

Tại Nhật Bản, theo Luật Phái cử lao động được ban hành vào năm 1985, các công việc dành cho lao động phái cử bị hạn chế trong một phạm vi nhất định. Theo đó, NLĐ phái cử mới chỉ được tham gia vào 13 ngành nghề. Tháng 12/1986, 03 ngành nghề khác được bổ sung, nâng tổng số ngành nghề lao động được phép tham gia lên 16 ngành nghề. Tháng 12/1996, ngành nghề được phép sử dụng lao động phái cử đã được tăng lên thành 26 ngành nghề, trong đó, tập trung vào một số ngành có sử dụng nhiều lao động, các công việc mang tính chất hỗ trợ như: Sản xuất/thực hiện chương trình truyền hình; sản xuất thiết bị văn phòng; Phiên dịch/biên dịch/tốc ký; Thư ký; Nghiên cứu thị trường; Hướng dẫn du lịch; Dọn dẹp vệ sinh tòa nhà; Vận hành/kiểm tra/sửa chữa máy móc xây dựng; Lễ tân/hướng dẫn tòa nhà… [29, tr.33]. Năm 2004, Luật tiếp tục cho phép phái cử lao động trong ngành chế tạo.

Như vậy, nếu như pháp luật Đức giới hạn phạm vi hoạt động và để mở ngành nghề, công việc được phép CTLLĐ bằng cách đưa ra trường hợp loại trừ thì pháp luật Nhật Bản đã khoanh vùng các công việc, ngành nghề được phép tiến hành phái cử lao động bằng cách liệt kê 26 ngành nghề cụ thể. Điều này giúp các bên trong quan hệ phái cử lao động của Nhật Bản thấy rõ hơn

phạm vi ngành nghề, công việc được phép tiến hành phái cử lao động theo quy định pháp luật.

Liên quan đến ngành nghề, lĩnh vực được phép phái cử lao động, pháp luật Trung Quốc cũng có những quy định riêng. Nếu như pháp luật Nhật Bản quy định các ngành nghề được tiến hành phái cử lao động ngay trong Luật Phái cử lao động thì pháp luật Trung Quốc lại chỉ xác định các tiêu chí mang tính định hướng nhận dạng các công việc được phép phái cử lao động. Luật về HĐLĐ của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định:

“Lao động phái cử được sử dụng làm những công việc tạm thời, phụ trợ hay thay thế. Các vị trí công việc cụ thể sẽ được cơ quan quản lý Nhà nước về lao động quy định” (Điều 66)

Theo giải thích của Ủy ban thường vụ Quốc hội, “tạm thời” có nghĩa thời hạn công việc không kéo dài 06 tháng, “hỗ trợ” có nghĩa vị trí công việc sử dụng lao động cho thuê không phải là bộ phận trung tâm của doanh nghiệp sử dụng, “thay thế” có nghĩa là vị trí công việc là của người làm việc dài hạn hay trực tiếp đang vắng mặt. Cách giải nghĩa này không mang tính bắt buộc mà chỉ là mang tính định hướng. Tuy nhiên, với quy định nhận dạng này, các cơ quan quản lý Nhà nước hoàn toàn có cơ sở để cụ thể hóa và mở rộng ngành nghề được phép phái cử lao động trên thực tế.

Như vậy, Trung Quốc đã giới hạn ngành nghề được phép phái cử lao động ngay trong Luật về HĐLĐ, trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại không xác định tiêu chí nhận dạng các công việc, ngành nghề được thực hiện CTLLĐ trong BLLĐ 2012 mà giao cho Chính phủ xác định danh mục công việc này. Các công việc được phép CTLLĐ đã được cụ thể hóa tại Nghị định số 55/2013/NĐ-CP [11]. Theo đó, có 17 công việc, nhóm công việc được phép thực hiện CTLLĐ, bao gồm:

1. Phiên dịch/ Biên dịch/ Tốc ký;

2. Thư ký/Trợ lý hành chính;

3. Lễ tân;

4. Hướng dẫn du lịch;

5. Hỗ trợ bán hàng;

6. Hỗ trợ dự án;

7. Lập trình hệ thống máy sản xuất;

8. Sản xuất, lắp đặt thiết bị truyền hình, viễn thông;

9. Vận hành/kiểm tra/sửa chữa máy móc xây dựng, hệ thống điện sản xuất;

10. Dọn dẹp vệ sinh tòa nhà, nhà máy;

11. Biên tập tài liệu;

12. Vệ sĩ/Bảo vệ;

13. Tiếp thị/Chăm sóc khách hàng qua điện thoại;

14. Xử lý các vấn đề tài chính, thuế;

15. Sửa chữa/Kiểm tra vận hành ô tô;

16. Scan, vẽ kỹ thuật công nghiệp/Trang trí nội thất;

17. Lái xe.

Như vậy, cũng như Nhật Bản, pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận các nhóm công việc, ngành nghề được phép CTLLĐ theo hướng liệt kê, tập trung chủ yếu vào các nhóm công việc hỗ trợ cho ngành sản xuất, dịch vụ (sản xuất, lắp đặt thiết bị truyền hình, viễn thông; hỗ trợ bán hàng; hỗ trợ dự án…), chủ yếu là các công việc sử dụng lao động phổ thông (vệ sĩ/bảo vệ; lái xe; dọn dẹp vệ sinh tòa nhà…). Kể từ ngày 15/9/2014, những doanh nghiệp vừa hoạt động sản xuất, kinh doanh vừa có nhiệm vụ góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia (theo đề án tái cơ cấu đơn vị đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt) cũng được phép CTLLĐ với những những công việc thuộc Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ LĐ – TB & XH ban hành. Đây là nội dung chính được quy định tại Nghị định số 73/2014/NĐ-CP sửa đổi, bổ

sung Điều 29 Nghị định số 55/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Lao động về việc cấp phép hoạt động CTLLĐ, việc ký quỹ và danh mục công việc được thực hiện CTLLĐ. [13]

Có thể nói, xét về số lượng ngành nghề, công việc được phép CTLLĐ ở Việt Nam còn khá hẹp và bị hạn chế hơn so với Nhật Bản, Đức hay Trung Quốc. Xét về tính chất công việc, ngành nghề được phép CTLLĐ, dường như ở Việt Nam, việc phân loại và quy định các công việc, nhóm công việc được phép CTLLĐ chưa thực sự trúng và đúng với nhu cầu thị trường. Thực tế, hoạt động CTLLĐ ở Việt Nam thời gian vừa qua chủ yếu tập trung vào các công việc như: gia công hàng xuất khẩu, xây dựng, dệt may, giúp việc gia đình, công nhân bốc xếp, giao hàng, phục vụ quán ăn, giữ trẻ, chăm sóc người già… đặc biệt, trong các công trình xây dựng lớn, nhu cầu thuê lại lao động của các nhà thầu khá cao. Tuy nhiên, chính các công việc này lại không nằm trong danh mục các công việc được thực hiện CTLLĐ. Sự không trùng khớp giữa quy định với thực tiễn CTLLĐ đã dẫn đến không ít các vi phạm pháp luật của chủ thể trong hoạt động CTLLĐ.

Nếu xét nhu cầu của doanh nghiệp CTLLĐ, doanh nghiệp luôn muốn mở rộng tối đa danh mục các công việc được phép CTLLĐ vì nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, xét từ nhu cầu của nhà quản lý Nhà nước thì mức độ an toàn cho xã hội (trong trường hợp này là an toàn cho chính các bên trong quan hệ thuê lại lao động và an toàn chung cho xã hội) lại là vấn đề cần được coi trọng. Việt Nam chúng ta chưa có kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực này, tâm lý xã hội chưa thực sự đồng thuận, ý thức của tất cả các bên liên quan chưa thực sự tốt, vì vậy, việc mở rộng phạm vi danh mục công việc được phép CTLLĐ cần phải cân nhắc rất kỹ lưỡng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta không điều chỉnh lại danh mục ngành nghề, công việc được phép CTLLĐ trong quá trình triển khai thực hiện. Tại khoản 3 Điều 25 Nghị

định số 55/2013/NĐ-CP Chính phủ cũng đã giao cho Bộ LĐ – TB & XH chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tiến hành rà soát, trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh danh mục công việc được phép CTLLĐ khi cần thiết. Vì vậy, việc mở rộng các công việc được phép CTLLĐ là hoàn toàn có thể.

Bên cạnh việc quy định danh mục công việc được phép CTLLĐ, pháp luật lao động Việt Nam cũng ràng buộc các doanh nghiệp CTLLĐ trong những trường hợp nhất định nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ cũng như bên thuê lại lao động. Mặc dù thuộc phạm vi những công việc được phép CTLLĐ nhưng doanh nghiệp có lao động cho thuê cũng không được CTLLĐ trong các trường hợp sau:

(i) Doanh nghiệp đang xảy ra tranh chấp lao động, đình công hoặc để thay thế NLĐ đang trong thời gian thực hiện quyền đình công, giải quyết tranh chấp lao động;

(ii) Doanh nghiệp cho thuê không thỏa thuận cụ thể về trách nhiệm bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của NLĐ thuê lại với bên thuê lại lao động;

(iii) Thay thế NLĐ bị cho thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc sáp nhập, hợp nhất, chia, tách doanh nghiệp hoặc vì lý do kinh tế;

(iv) Cho thuê lao động để làm các công việc ở những nơi có điều kiện sinh sống khắc nghiệt theo danh mục do Bộ trưởng Bộ LĐ – TB & XH và Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành, trừ trường hợp NLĐ đó đã sinh sống tại khu vực trên từ đủ 03 năm trở lên; công việc CTLLĐ nằm trong Danh mục nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm do Bộ trưởng Bộ LĐ – TB & XH ban hành.

Như vậy, mặc dù ngành nghề, công việc CTLLĐ theo pháp luật Việt Nam ít hơn, hẹp hơn các nước nhưng việc liệt kê cụ thể các công việc, nhóm công việc

như hiện nay giúp doanh nghiệp CTLLĐ, doanh nghiệp thuê lại lao động và NLĐ cho thuê lại dễ dàng nhận biết, đặc biệt, việc giới hạn các trường hợp không được thực hiện CTLLĐ nhằm đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng như công tác quản lý Nhà nước trong hoạt động này. Thực tế, pháp luật cần có sự điều chỉnh phù hợp để đáp ứng nhu cầu của thị trường CTLLĐ.

Qua phân tích trên có thể thấy, mặc dù pháp luật các nước đều giới hạn số lượng ngành nghề, công việc được phép CTLLĐ nhưng mỗi quốc gia lại có một cách ghi nhận khác nhau về số lượng và tính chất các công việc, ngành nghề được phép CTLLĐ:

Pháp luật Đức giới hạn phạm vi hoạt động và để mở ngành nghề, công việc được phép CTLLĐ bằng cách đưa ra trường hợp loại trừ trong một số lĩnh vực đặc thù như ngành xây dựng. Việc CTLLĐ giữa những NSDLĐ chỉ được tiến hành trong cùng một ngành kinh tế, giữa các doanh nghiệp của cùng một tập đoàn hoặc cùng một liên doanh, trừ một số trường hợp ngoại lệ.

Tại Nhật Bản, pháp luật Nhật Bản quy định theo hướng liệt kê khá chi tiết, đầy đủ các ngành nghề, công việc được phép cho phái cử lao động, trong đó tập trung vào một số ngành có sử dụng nhiều lao động, các công việc mang tính chất hỗ trợ… nâng tổng số công việc, ngành nghề được phép tiến hành phái cử lao động lên 26 ngành nghề.

Khác với Đức và Nhật Bản, pháp luật Trung Quốc chỉ xác định các tiêu chí mang tính định hướng nhận dạng các công việc được phép phái cử lao động, lao động phái cử được sử dụng làm những công việc tạm thời, phụ trợ hay thay thế. Theo đó, “tạm thời” có nghĩa thời hạn công việc không kéo dài 06 tháng, “hỗ trợ” có nghĩa vị trí công việc sử dụng lao động cho thuê không phải là bộ phận trung tâm của doanh nghiệp sử dụng, “thay thế” có nghĩa là vị trí công việc là của người làm việc dài hạn hay trực tiếp đang vắng mặt.

Còn ở Việt Nam, pháp luật Việt Nam không xác định tiêu chí nhận dạng các công việc, ngành nghề được thực hiện CTLLĐ trong BLLĐ 2012 mà giao

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 15/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí