Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự - 2

của ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được chứng nhận, chứng thực.

Quyền của người lập di chúc được pháp luật quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự năm 1995, bao gồm những quyền sau:

- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;


- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;


- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;


- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế trong phạm vi di sản;


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.


Các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự - 2

Trong thực tế thì không phải bất cứ người lập di chúc nào cũng thực hiện đúng các quyền được ghi nhận trên, hoặc là sử dụng một phần, hoặc lại sử dụng quá cả phần quyền được pháp luật quy định. Về thực hiện quyền phân định di sản thì người lập di chúc cũng có sự phân định di sản khác nhau: Có di chúc chỉ phân định một phần di sản cho người thừa kế, còn một phần di sản di chúc không nhắc đến. Trên thực tế cũng có những di chúc định đoạt cả phần tài sản của người khác (thường là định đoạt toàn bộ tài sản chung vợ chồng). Trong trường hợp này, di chúc chỉ có hiệu lực một phần tương ứng với di sản của người lập di chúc.

Theo quy định của Bộ luật dân sự Pháp thì di chúc có nhiều điểm tương tự như pháp luật dân sự nước ta, được thể hiện:

Điều 895 quy định: "Di chúc là một chứng thư theo đó người để lại di chúc định đoạt sau khi chết, một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình, người đó có thể hủy bỏ di chúc" [5].

Điều 967 quy định: "Mọi người đều có thể định đoạt bằng di chúc để lập thừa kế hoặc để di tặng hoặc được gọi bằng bất cứ tên nào khác để thể hiện ý chí của mình" [5].

Điều 969 quy định: "Di chúc có thể viết tay, lập công chứng thư hoặc di chúc bí mật" [5].

Còn Bộ luật dân sự Nhật Bản quy định di chúc tuy có những đặc trưng riêng, nhưng về cơ bản các quy định cũng tương tự như Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp.

Pháp luật dân sự của Cộng hòa Pháp và pháp luật dân sự Nhật Bản còn có quy định hình thức của di chúc bí mật. Bản chất của di chúc bí mật tương tự như di chúc được lập tại công chứng nhà nước ở nước ta, nhưng có thủ tục chặt chẽ hơn (chúng tôi xin phân tích kỹ hơn ở phần hình thức của di chúc).

1.2.2. Đặc điểm của di chúc


Di chúc có những đặc điểm riêng biệt so với các giao dịch dân sự khác ở những điểm sau:

Trước hết, di chúc chính là sự thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc. ý chí đơn phương này được thể hiện qua việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc không phải bàn bạc với bất kỳ ai trong việc định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (trường hợp lập di chúc chung vợ chồng thực chất thì vẫn là phần tài sản của ai thì người đó có quyền định đoạt). Người lập di chúc không có nghĩa vụ phải trao đổi với những người thừa kế về nội dung di chúc. Người lập di chúc phải tự nguyện, không bị đe dọa, cưỡng ép trong việc lập di chúc. Di chúc thể hiện ý chí của người lập di chúc, không bị sự chi phối nào của người khác. Bằng việc lập di chúc, người để lại di sản đã xác lập một giao dịch dân sự về thừa kế theo di chúc.

ý chí đơn phương của người lập di chúc còn được thể hiện việc người lập di chúc toàn quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình cho bất kỳ ai và có quyền cho ai bao nhiêu phần trăm số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình mà không phụ thuộc vào việc người được hưởng thừa kế theo di chúc có quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng hay thân thích với người lập di chúc. Người lập di chúc có thể cho người này nhiều, người kia ít, hoặc không cho người nào đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

Như vậy, nếu như trong tất cả các loại hợp đồng dân sự đều phải thể hiện ý chí của các bên tham gia hợp đồng và các bên đều phải tự nguyện thỏa thuận, bàn bạc, trao đổi..., thì di chúc chỉ thể hiện ý chí của bên lập di chúc. Hợp đồng dân sự chỉ phát sinh

hiệu lực khi các bên tham gia hợp đồng thống nhất được những điều khoản ghi nhận trong hợp đồng và cùng nhau ký kết hợp đồng, còn trong di chúc thì không có sự thống nhất giữa người lập di chúc và người được thừa kế theo di chúc. Thực tế đã có nhiều trường hợp người được hưởng thừa kế theo di chúc không thể biết mình có quyền được hưởng di sản theo di chúc vì di chúc chưa được công bố và được cất giữ bí mật.

Đối với những di chúc do vợ chồng lập chung, trong đó mặc dù thể hiện ý chí chung của hai người, nhưng thực chất vẫn thể hiện ý chí đơn phương của từng người trong việc định đoạt tài sản chung (ý chí đơn phương của chồng và vợ trùng nhau trong việc định đoạt tài sản chung vợ chồng). Mặt khác, di chúc chung của vợ chồng vẫn chỉ thể hiện ý chí của một bên - bên chuyển giao tài sản.

ý chí đơn phương này là đặc điểm khác biệt của di chúc với các loại giao dịch dân sự khác. Đây không phải chỉ riêng di chúc theo pháp luật dân sự Việt Nam mà pháp luật dân sự của hầu hết các nước thì vấn đề này cũng được quy định rò như: Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Đức…

Đặc điểm thứ hai: Di chúc thể hiện sự định đoạt tài sản của người lập di chúc nhằm chuyển dịch tài sản cho người khác, sau khi người lập di chúc chết.

Nếu như các loại hợp đồng dân sự đều thể hiện ý chí thỏa thuận của các chủ thể nhằm chuyển dịch tài sản từ người này sang người khác thì di chúc lại nhằm chuyển dịch tài sản của người đã chết sang cho người còn sống. Người thừa kế theo di chúc phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế.

Thực tế cho thấy không phải bất cứ ai trước khi chết cũng lập di chúc, mà có người trước khi chết họ chỉ để lại những lời dặn dò, ví dụ: Dặn dò các con phải thương yêu nhau, phải cố gắng học tập, tránh xa các thói hư, tật xấu...

Với khái niệm về di chúc tại Điều 649 Bộ luật dân sự năm 1995 (Điều 646 Bộ luật dân sự năm 2005) thì di chúc phải thể hiện việc chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Vì vậy, nếu như một tài liệu nào đó của người chết để lại mà không hàm chứa nội dung chuyển tài sản cho người khác, thì không thể được coi là di chúc. Pháp luật cho phép công dân có quyền định đoạt tài sản, trong đó có

việc để lại di sản thừa kế theo di chúc, nhưng pháp luật cũng chỉ công nhận khi di chúc của công dân đó thỏa mãn những điều kiện nhất định. Trong thực tiễn đã có không ít những di chúc không tuân theo những quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, dẫn tới di chúc không được công nhận hoặc chỉ được công nhận một phần.

Đặc điểm thứ ba: Di chúc là một loại giao dịch dân sự đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết.

Khoản 1 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995 (khoản 1 Điều 667 Bộ luật dân sự năm 2005) quy định: "Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế" [6], [7].

Về thời điểm mở thừa kế, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 quy định thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết, thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định theo quy định của pháp luật.

Đây là một đặc điểm thể hiện rò nét sự khác biệt giữa di chúc với các loại giao dịch dân sự khác, ví dụ như hợp đồng dân sự có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác, còn thời điểm có hiệu lực của di chúc lại phụ thuộc vào thời điểm mà người lập di chúc chết hoặc thời điểm mà quyết định của Tòa án tuyên bố người lập di chúc chết có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, việc xác định đúng thời điểm mở thừa kế (thời điểm người lập di chúc chết) có ý nghĩa trong việc xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc. Mặt khác, xác định đúng thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định di chúc nào là di chúc có hiệu lực trong trường hợp một người có nhiều di chúc. Di chúc thể hiện ý chí đơn phương của người lập di chúc và người lập di chúc có quyền thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung di chúc hay hủy bỏ di chúc. Sự thay đổi hay hủy bỏ di chúc có thể được thể hiện dưới hình thức người đó lập di chúc mới ghi nhận về việc thay đổi hay hủy bỏ di chúc, nhưng cũng có thể bằng di chúc mới (mặc dù không nói rằng thay đổi hay hủy bỏ di chúc) người lập di chúc định đoạt tài sản mà nội dung định đoạt khác với di chúc đã viết trước đó. Việc đánh giá hiệu lực của di chúc như vậy dựa theo quy định tại khoản 5 Điều 670 Bộ luật dân sự năm 1995: "Khi

một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản, thì chỉ có bản di chúc sau cùng mới có hiệu lực pháp luật" [6].

Tóm lại, khi người lập di chúc còn sống thì di chúc dù có phù hợp với các quy định của pháp luật về hình thức và nội dung, thì di chúc cũng chưa phát sinh hiệu lực. Do di chúc chưa phát sinh hiệu lực (khi người lập di chúc chưa chết) nên những người thừa kế theo di chúc chưa có bất kỳ một quyền nào đối với tài sản mà họ sẽ được hưởng. Quyền đối với tài sản vẫn thuộc về người lập di chúc cho đến khi người lập di chúc chết.


1.3 Tiến trình phát triển của những quy định pháp luật về thừa kế nói chung và các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng ở Việt Nam

1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945


Dưới chế độ phong kiến, đời sống của nhân dân ta vô cùng khổ cực vì chế độ sưu cao, thuế nặng. Người nông dân chiếm đại đa số trong xã hội, nhưng bị trói buộc bởi ruộng đất của địa chủ, phong kiến. Giai cấp địa chủ chiếm số ít trong xã hội nhưng lại nắm đa số các tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhà nước phong kiến dùng pháp luật trong đó có pháp luật về thừa kế để duy trì và củng cố quyền sở hữu của giai cấp địa chủ đối với ruộng đất từ đời này sang đời khác.

Chế độ phong kiến đã tồn tại ở nước ta qua nhiều thế kỷ. Trải qua nhiều triều đại, mỗi Nhà nước phong kiến đều ban hành các văn bản pháp luật để củng cố quyền lực và phục vụ việc quản lý đất nước. Từ xa xưa, các bộ cổ luật của các triều đại phong kiến đã có nhiều quy định cụ thể về thừa kế. Đáng chú ý của thời kỳ phong kiến là: Bộ luật Hồng Đức (năm 1943), Bộ luật Gia Long (năm 1815), Bộ Dân luật Bắc kỳ (năm 1931), Bộ Dân luật Trung kỳ (năm 1936). Ngoài các bộ luật, các nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều văn bản như chiếu, chỉ, dụ, lệnh của vua…

Trong Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc triều hình luật hoặc Luật hình triều Lê có quy định tôn trọng ý muốn và quyền quyết định của người có tài sản.

Điều 388 Bộ luật Hồng Đức quy định:

Cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư, mà anh em chị em tự chia nhau, thì lấy một phần 20 số ruộng đất làm hương hỏa, giao cho người con trai trưởng giữ, còn thì chia nhau. Phần con của vợ lẽ, nàng hầu, thì phải kém. Nếu đã có lệnh của cha mẹ và chúc thư, thì phải theo đúng, trái thì mất phần mình.

Điều 390 Bộ luật Hồng Đức quy định: "Người làm cha mẹ phải liệu tuổi già mà lập sẵn chúc thư…" [11].

Như vậy, Bộ luật Hồng Đức đã quy định quyền lập chúc thư để lại di sản, đặc biệt là những người tuổi cao.

Di chúc được lập dưới dạng văn bản gọi là chúc thư. Bộ luật Hồng Đức cũng quy định về hình thức lập di chúc tại Điều 366: "Những người làm chúc thư, văn khế mà không nhờ quan trưởng trong làng viết thay và chứng kiến, thì phải phạt 80 trượng, phạt tiền theo việc nặng nhẹ. Chúc thư văn khế ấy không có giá trị. Nếu biết chữ mà viết lấy thì được" [11].

Như vậy, người có tài sản có thể tự mình viết chúc thư. Nếu người để lại di sản không biết chữ thì chỉ được phép nhờ quan trưởng viết thay, không được nhờ người khác. Nếu nhờ người khác viết hộ di chúc mà không nhờ quan trưởng thì ngoài việc bị phạt, di chúc không có giá trị, di sản được chia theo pháp luật. Vấn đề hình thức lập di chúc trong thời kỳ này đã được coi trọng.

Bộ luật Gia Long (hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ) là phiên bản của Bộ luật Mãn Thanh (Trung Quốc). Bộ luật không thừa nhận quyền thừa kế của con gái mà chú trọng đến quyền lợi của con trai, thể hiện rò việc trọng nam khinh nữ. Bộ luật cũng công nhận vai trò của việc thừa kế theo di chúc, thể hiện tại Điều 388 Bộ luật này quy định: "Nếu có mệnh lệnh của cha mẹ, phải theo đúng. Vi phạm điều này sẽ mất phần" [9].

Bộ Dân luật Bắc kỳ được ban hành bằng một Nghị định của Thống sứ Bắc kỳ ngày 30-3-1931. Bộ luật bao gồm 1.464 điều, được chia làm 4 quyển. Quyển thứ nhất bao gồm 12 thiên quy định về gia đình, chế độ hôn sản và thừa kế, trong đó có 17 điều luật quy định về thừa kế theo di chúc. Nội dung của bộ luật phản ánh được những phong

tục, tập quán của người Việt Nam như: Việc thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng truyền thống và đặc trưng của người Việt Nam…

Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để thờ cúng. Việc chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người trong cùng một gia đình được coi là bổn phận của đạo đức. Bộ luật quy định con cháu không được phân chia khối tài sản của gia đình khi cha mẹ còn sống nếu không được sự đồng ý của họ. Con cháu của người chết buộc phải nhận di sản của người đó và thay họ thực hiện các nghĩa vụ về tài sản mà họ để lại... Bộ luật còn quy định cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng con cái, phải đảm bảo cho cuộc sống lâu dài của con cái nên họ phải để lại tài sản của mình cho những người ở thế hệ sau khi họ chết. Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định người vợ không có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản riêng của mình nếu không được người chồng đồng ý. Người cha có thể lập chúc thư để định đoạt tài sản của mình tùy theo ý mình, nhưng phải giữ quyền lợi cho người vợ chính. Người lập chúc thư có thể truất quyền thừa kế của một hay nhiều người trong những người được thừa kế. Việc truất quyền thừa kế phải lập thành văn bản do viên quản lý văn khế lập hoặc do lý trưởng nơi cư trú của người lập chúc thư. Chúc thư phải làm thành văn bản hoặc do viên quản lý văn khế làm ra hoặc có công chứng thị thực. Chúc thư không có viên chức thị thực phải do người lập chúc thư viết lấy và ký tên. Nếu người lập chúc thư đọc để người khác viết thay thì phải có ít nhất hai người đã thành niên làm chứng. Người làm chứng thường là lý trưởng tại nơi trú quán của người lập chúc thư, nếu ở xa không về nơi trú quán được thì chúc thư ấy phải có sự chứng kiến của lý trưởng nơi hiện ở của người lập chúc thư (Điều 326 Dân luật Bắc kỳ). Chúc thư phải ghi rò ngày, tháng năm lập chúc thư; tên, họ, tuổi, nơi trú quán của người làm chứng. Chúc thư khi đã làm xong thì lý trưởng đọc to cho mọi người cùng nghe rồi lý trưởng, người lập chúc thư, người viết hộ (nếu có) và những người làm chứng cùng ký tên vào văn bản. Có bao nhiêu người được thừa kế thì chúc thư được làm thành bấy nhiêu bản gốc để gửi cho mỗi người thừa kế một bản.

Khi người lập chúc thư muốn thay đổi một phần hay toàn bộ chúc thư, thì bản chúc thư sau phải tiến hành đúng những thủ tục trên và phải nêu rò việc người lập chúc

thư thay đổi một phần hay toàn bộ bản chúc thư, nếu không nói rò thì chỉ những điều khoản nào không hợp hoặc có trái với bản chúc thư sau mới bị bỏ mà thôi.

Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ quy định: Khi người vợ chết trước, người chồng trở thành chủ sở hữu duy nhất tất cả của cải chung trong đó có cả phần của vợ (tức là tài sản riêng của vợ). Còn nếu chồng chết thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng tài sản riêng của chồng khi không còn người thừa kế nào bên nội, bên ngoại của chồng (Điều 346). Nếu người vợ góa tái giá thì tài sản riêng của chồng phải trả lại nhà chồng, tài sản riêng của vợ được mang theo đi, còn tài sản của vợ chồng thì để lại cho con (Điều 360) [14].

Bộ luật Trung kỳ hay còn gọi là Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật gồm 1709 điều, được chia làm 5 quyển. Có thể nói, Bộ luật này hầu như sao chép lại nhiều điều khoản trong Bộ luật Bắc kỳ, ví dụ: Điều 341 Bộ luật Trung kỳ giống Điều 346 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 359 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 360 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 111 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 113 Bộ Dân luật Bắc kỳ; Điều 313 Bộ Dân luật Trung kỳ giống Điều 321 Bộ Dân luật Bắc kỳ... [15].

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1990


Với thắng lợi rực rỡ của Cách mạng tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, đánh dấu một trang sử mới của cách mạng nước ta. Ngay sau khi thành lập, nhà nước non trẻ đã phải đối phó với rất nhiều những khó khăn cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội… Để giữ vững thành quả cách mạng, Nhà nước ta đã có những chính sách vừa mềm dẻo, vừa cương quyết để tập trung quyền lực về tay Nhà nước. Trong thời kỳ này, những vấn đề lớn đều được điều chỉnh bằng các Sắc lệnh, còn những vấn đề thuộc về dân sự thì Nhà nước vẫn cho phép áp dụng các văn bản cũ, nếu nó không trái nguyên tắc vi phạm đến độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa (Sắc lệnh số 90/SL ngày 10-9-1945). Trong quan hệ về thừa kế, Nhà nước ta vẫn cho phép áp dụng các quy định trong các Bộ Dân luật Bắc kỳ, Bộ Dân luật Trung Kỳ.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội thì những điều khoản của các Bộ dân luật trở nên lạc hậu. Để xóa bỏ sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, nhằm mục đích bảo

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/06/2022