Các Điều Kiện Hạ Tầng Cho Sự Phát Triển Của Im Tại Vn


đầu tư phát triển này đã tạo điều kiện nền tảng cho bùng nổ của các hoạt động trên Internet trong những năm vừa qua; đồng thời là những tín hiệu duy trì đà phát triển mạnh mẽ trong các năm tới của TMĐT nói chung và các hoạt động kinh doanh trên Internet nói riêng, trong đó có IM; các DN nên chuẩn bị nguồn lực để sẵn sàng đón nhận các cơ hội này [5-9]

2. Các điều kiện hạ tầng cho sự phát triển của IM tại VN

Để đánh giá tổng thể về vấn đề này, 2 nguồn dữ liệu thứ cấp quan trọng đã được sử dụng, bao gồm: (1) Hệ thống đánh giá về mức độ sẵn sàng điện tử của EIU (Economics Intelligence Unit), đặc biệt năm 2009 là báo cáo gần đây nhất mà EIU công bố [81]; (2) Hệ thống Báo cáo TMĐTVN từ 2007-2011 [5-9], đặc biệt là năm 2010, trong đó có riêng chương 4 đánh giá về Marketing trực tuyến của VN [9].

EIU đã đánh giá các điều kiện hạ tầng cho sự phát triển của TMĐT nói chung, trong đó có IM nói riêng, qua Chỉ số sẵn sàng cho TMĐT (E-Readiness) của 70 nước – trong đó có VN, được thực hiệntừ năm 2000. Chỉ số này đánh giá khả năng của môi trường kinh tế ở mỗi quốc gia sẵn sàng và tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh trên Internet; được xác định thông qua 6 nhóm

- bao gồm gần 100 chỉ tiêu - kèm theo quyền số của từng nhóm. Sáu nhóm chỉ tiêu của năm 2009 (báo cáo gần đây nhất mà EIU công bố) là [81]:

o Mức độ kết nối internet và cơ sở hạ tầng kỹ thuật, với quyền số 20%

o Môi trường kinh doanh, với quyền số 15 %

o Môi trường văn hoá xã hội, với quyền số 15%

o Môi trường pháp lý và chính sách, với quyền số 10%

o Tầm nhìn và chính sách của Chính phủ, quyền số 15%

o Sự thích nghi của người tiêu dùng, với quyền số 25%

Trong số các nhóm chỉ tiêu đó, nhóm chỉ tiêu về mức độ kết nối Internet và cơ sở hạ tầng kỹ thuật có trọng số rất cao là 20%. Chỉ tiêu này nói về các điều kiện và cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho kết nối và truy cập Internet của quốc gia, như đường truyền Internet, tổng băng thông kết nối quốc tế và trong nước, dung lượng và tổng lưu lượng trao đổi, số máy tính cá nhân so với dân số…Ở VN, đây thực sự là một thách thức to lớn đối với những nhà hoạt động kinh doanh trên mạng, với điểm đánh giá nhận được là 2.50/10 (so với mức năm 2007 là 2.25/10), chỉ cao hơn Nigeria và Ấn Độ. Tất cả các chỉ tiêu trong nhóm này mà EIU đưa ra thì VN đều ở mức thấp so với khu vực và càng cách biệt hơn so với các nước phát triển trên thế giới. Thực tế này có thể dễ quan sát thấy: đường truyền tốc độ cao, băng thông rộng mới chỉ dừng lại tại các thành phố lớn và giá cả truy cập dịch vụ Internet tại một số địa phương còn khá cao so với thu nhập của người dân; mạng thường xuyên gặp sự cố nghẽn, chậm của chất lượng đường truyền nhất là vào những giờ cao điểm; rất khó khăn trong việc truy cập trang web…

Nhóm chỉ tiêu thứ hai về môi trường kinh doanh là đánh giá về các yếu tố kinh tế, chính trị và thương mại trong việc tạo thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, bao gồm đánh giá về mức độ ổn định của nền kinh tế, tính hấp dẫn và chất lượng của môi trường đầu tư, sự ổn định chính trị, sự hỗ trợ của chính phủ cho các hoạt động kinh doanh, mức độ mở của nền kinh tế và hoạt động thương mại…Đây là nhóm chỉ tiêu nhận điểm đánh giá cao nhất của VN nhưng cũng chỉ dừng ở mức 5.42/10, so với 5.98/10 của năm 2007.

Nhóm chỉ tiêu đánh giá môi trường văn hóa xã hội của VN có điểm đánh giá là 3.83/10 (năm 2007 là 3.60/10). Sở dĩ thấp như vậy là vì trình độ học vấn và nền tảng kiến thức của người dân VN đối với nền kinh tế điện tử là rất thấp, với đa phần người dân có gốc nông nghiệp và không có cơ hội tiếp cận với công nghệ thông tin hiện đại. Hơn nữa, VN không phải là nước nói tiếng Anh – thứ ngôn ngữ lập trình cơ bản và cũng là ngôn ngữ được dùng phổ biến nhất trên mạng Internet. Thói quen mua sắm và tiêu dùng phải được nhìn, thử và mặc cả trực tiếp cũng là một cản trở văn hóa đối với hoạt động kinh doanh trên môi trường điện tử. Thích nghi với yếu tố này, các hoạt động IM cũng cần có những điều chỉnh về công cụ so với các công cụ được sử dụng phổ biến trên thế giới.


Nhóm chỉ tiêu thứ 4 về môi trường luật pháp và thể chế của VN là 4.50/10 (năm 2007 là 4.05/10 điểm). Trong nhóm này, EIU đưa ra 4 tiêu thức cơ bản để đánh giá về khả năng hệ thống pháp luật hỗ trợ cho tính hiệu quả của sự sẵn sàng điện tử, bao gồm: (1) khả năng bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và quyền sở hữu trí tuệ cả ngoại tuyến và trực tuyến; (2) khả năng hỗ trợ và thúc đẩy cho sự phát triển của những phương pháp bảo đảm an ninh số hóa; (3) tính rõ ràng và chính xác, không gây hiểu nhầm hoặc tranh cãi; (4) khả năng cho phép các DN mới đăng ký và thâm nhập hoạt động nhanh chóng và dễ dàng. So với các nước trong khu vực VN đang là quốc gia chậm trễ trong việc ban hành những điều luật cần thiết để xây dựng nền TMĐT. Bảo mật thương mại và bảo mật thương mại trực tuyến cũng là một điều mà EIU đánh giá VN rất thấp. Chính vì vấn đề này mà các vấn đề thu thập thông tin chính xác và tự nguyện của KH phục vụ cho các hoạt động IM, cũng như các vấn đề khác như phân phối trực tuyến hay giao dịch điện tử vẫn còn gặp nhiều hạn chế so với các nước khác.

Nhóm chỉ tiêu thứ 5 là đánh giá về tầm nhìn và chính sách của Chính phủ đối với nền kinh tế điện tử, hay như EIU gọi là Chính phủ sẵn sàng điện tử. Chính phủ đóng vai trò then chốt trong việc tạo cơ sở cho các hoạt động kinh doanh trong môi trường điện tử, được thể hiện qua các công việc cụ thể như: thực hiện các chính sách tạo điều kiện cho việc áp dụng công nghệ thông qua đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và giáo dục, cung cấp khung khổ pháp lý cho việc chấp nhận những giao dịch số hóa, thực hiện Chính phủ - điện tử và từ đó lôi kéo các DN và công dân chưa sẵn sàng điện tử vào cuộc…Chỉ số này của VN năm 2009 là 5.35 (tăng 0.9 điểm so với năm 2007 là 4.25/10), nhờ những động thái và nỗ lực của Chính phủ trong việc nâng cao chất lượng công nghệ thông tin và chính phủ điện tử.

Nhóm chỉ tiêu có trọng số đánh giá cao nhất là các đòi hỏi về bản thân các DN và người tiêu dùng của quốc gia đó có thích ứng với hoạt động kinh doanh điện tử hay không. Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đầu tư vào công nghệ thông tin và các điều kiện khác để “sẵn sàng điện tử” của các DN, cũng như hành vi và mức độ thường xuyên mà họ sử dụng những dịch vụ số hóa, đồng thời là cả những cơ hội mà quốc gia cung cấp cho họ để thực hiện hoàn thiện các giao dịch điện tử, ví dụ như nguồn nhân lực được đào tạo về TMĐT để các DN có thể được sử dụng cho công việc.Chỉ tiêu này của VN năm 2009 nhận điểm đánh giá rất thấp là 2.65/10, tức là còn giảm so với mức của năm 2007 là 3.20/10. Điều này, ngoài yếu tố thuộc bản thân các DN thì một phần do những dịch vụ điện tử hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh trực tuyến, như thanh toán điện tử, bảo mật và an toàn an ninh mạng...lại rất thiếu và/hoặc rất yếu, chưa đủ tầm để cho các DN và người tiêu dùng trong nước yên tâm tham gia hoạt động trực tuyến. Điều này thể hiện rằng mức độ sẵn sàng cho nền kinh tế điện tử của bản thân các DN là chưa cao, do đó các giải pháp đề xuất cho việc ứng dụng các công cụ của TMĐT nói chung cũng như IM cần cân nhắc tính khả thi của chúng.

Tổng kết tất cả những đánh giá này, VN nhận được 3.80 điểm và đứng hạng thứ 64 trên tổng số 70 quốc gia. Đây thực sự là những thách thức lớn cho mỗi tổ chức, cá nhân và cả bản thân Chính phủ khi tham gia hoạt động và điều hành kinh doanh trên môi trường Internet. Tuy nhiên, cũng chính như EIU đã viết trong phần kết luận báo cáo của mình là tất cả những khó khăn đều có thể tìm cách khắc phục; nói cách khác là nó hoàn toàn có thể đáp ứng đủ cho việc ứng dụng các hoạt động IM ở mức độ như hiện nay. Lợi ích của hoạt động kinh doanh trên môi trường Internet là không thể phủ nhận được và cơ hội cho môi trường kinh doanh Internet thực sự là rất lớn cho những DN nào biết khắc phục những khó khăn đó.

3. Đặc điểm hành vi sử dụng Internetcủa người Việt Nam ảnh hưởng đến hoạt động IM

Người sử dụng Internet tại VN vừa có những đặc điểm giống như những người sử dụng Internet trên toàn thế giới, đồng thời có những điểm khác biệt đặc thù riêng mà các DN cần nắm bắt để đưa ra những quyết định phù hợp.

Về những điểm chung, tất cả những người sử dụng Internet đều chia sẻ chung những văn hoá và cách thức giao tiếp, sử dụng mạng Internet của cộng đồng thế giới ảo, những đặc điểm này là do các đặc điểm công nghệ - kỹ thuật của Internet đã tạo ra hay chi phối. Sự bùng nổ của Internet


tạo ra một thế giới phẳng nơi mà các đặc điểm về văn hóa, thẩm mỹ, lối sống giao thoa với nhau, có nhiều nét tương đồng. Không gian online không giới hạn tạo điều kiện cho giao tiếp giữa người với người trên toàn thế giới. Các giới hạn về không gian hay ngôn ngữ dần được thu hẹp tạo điều điện cho giao thoa văn hóa toàn cầu. Tốc độ giao thoa nhanh hơn và mức độ ảnh hưởng của giao thoa văn hóa càng ngày càng lớn. Web 2.0 ra đời, quá trình tương tác giữa những người tham gia vào mạng Internet càng nhiều và gần gũi. Các mạng xã hội, các forum (diễn đàn) càng ngày càng phát triển, mọi người tham gia trao đổi thông tin, chia sẻ quan điểm bằng các công cụ như video, ảnh, câu chuyện, đoạn nhạc... Từ đó hình thành các nhóm chuyên biệt với những đặc tính riêng biệt [82]. Những nhóm này hình thành những đặc trưng về văn hoá riêng. Nó ảnh hưởng tới nhận thức và quyết định của các thành viên trong nhóm cũng như tới các nhóm khác và ảnh hưởng trực tiếp tới thế giới thật. Cách thức biểu lộ cảm xúc cũng như quá trình ra quyết định của các thành viên khi họ ở trong thế giới thật chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các tương tác với nhóm trong thế giới ảo. Tuy nhiên, so với các nhóm trong môi trường thực tế thì tốc độ hình thành của các nhóm này nhanh hơn, tốc độ tiếp thu giá trị của các thành viên cũng nhanh hơn nhưng thời gian của nó cũng nhanh và tính bền vững cũng kém hơn - việc tham gia cũng như rút khỏi nhóm cũng dễ dàng, những yếu tố ràng buộc thành viên kém. Xu hướng thể hiện các yếu tố cá nhân trong nhóm hay trên các cộng đồng mạng là mạnh mẽ hơn so với môi trường thực tế. Sử dụng các công cụ được cung cấp trên mạng cũng như những ứng dụng của Internet, người sử dụng Internet có nhiều cơ hội thể hiện bản thân. Họ tạo ra những thông tin dưới nhiều hình thức để phản ánh cái tôi, phản ánh quan điểm cá nhân về những vấn đề hiện hữu trên thế giới thật, cũng như trên thế giới ảo. Đặc biệt cái tôi mà họ thể hiện thường được chau chuốt hơn hay có thể xem đó là “supper igo” – cái siêu tôi. Ngoài ra điều này cũng tạo ra xu hướng không thích thể hiện mình trong thế giới thật [82], [86].

Internet cũng tạo nên một thế giới ảo hấp dẫn. Nhiều thông tin, nhiều phương thức hỗ trợ hoạt động mà thế giới thật không có được, do đó càng ngày càng nhiêu người dùng nhiều thời gian trên mạng, sử dụng các công cụ trên mạng như một phần cuộc sống của họ. Từ đó tính phụ thuộc vào mạng càng tăng, xuất hiện xu hướng “KH lười”: lười tiếp xúc với thế giới thật, con người thật và việc ra quyết định trở nên phụ thuộc vào các yếu tố thuộc thế giới ảo [74].

Trình độ của ngày càng được nâng cao hơn, người dân dễ dàng tiếp cận được với những cái mới, tỏ ra thân thuộc với khoa học kỹ thuật hơn. Với sự phong phú về lượng thông tin, Internet trở thành một công cụ hữu hiệu để mọi người tìm đến khi cần tìm hiểu một thông tin nào đó. Từ đó, hình thành nên một quan niệm được chấp nhận rộng rãi: tri thức và thông tin được tạo ra là để chia sẻ, và mọi thứ trên mạng có thể kiếm được miễn phí. Cũng theo cách đó, khi muốn mua một SP, họ tìm kiếm thông tin trên các website so sánh giữa các thương hiệu về kiểu dáng mẫu mã, giá cả…Hữu ích hơn, họ còn có thể nhận được những thông tin mong muốn qua từ nhà cung cấp, hay đưa ra quan điểm cá nhân và những ý kiến đóng góp phản hồi hay cùng chia sẻ với mọi người về một SP, dịch vụ nào đó. Phong cách sống hiện đại kết hợp với sự hỗ trợ của phương thức thanh toán điện tử, xu hướng mua hàng online ngày càng phát triển hơn. Tuy nhiên, có một điều vẫn làm người ta ái ngại khi mua hàng online đó là vấn đề rủi ro về chất lượng hàng hóa, về thanh toán [84].

Ngoài những đặc điểm chung nhất giống như tất cả mọi người sử dụng Internet trên thế giới thì người sử dụng Internet tại VN lại mang thêm những đặc trưng riêng, chịu ảnh hưởng bởi văn hoá đất nước. Thực tế về hành vi người sử dụng Internet tại VN được thu thập từ các báo cáo nghiên cứu khảo sát TTr, bao gồm: (1) cuộc điều tra TTr người sử dụng Internet của do Yahoo! và Công ty nghiên cứu truyền thông TNS tiến hành với 1.200 người tuổi trên 15, thực hiện vào tháng 5.2010 [9], (2) cuộc khảo sát với 500 hộ gia đình tại thành phố Hà Nội – là thành phố được nhận định là tiềm năng bậc nhất cho hoạt động TMĐT, do Bộ Công thương tiến hành, vào cuối năm 2010 [9], (3) các cuộc khảo sát người sử dụng Internet tại Việt Nam của công ty nghiên cứu Marketing Cimigo, đã tiến hành 3 năm từ 2010-2012 với quy mô mỗi năm khoảng 3500 người tham gia trả lời [15-17].

Việt Nam cũng như các nước Châu Á khác có tỷ lệ người sử dụng Internet so với dân số là tương đối thấp (số trung bình của Châu Á khoảng 15% so với mức 65% của Mỹ và Canada). Đồng


thời, sự khác biệt của mô hình mua sắm của người Châu Á nói chung và VN nói riêng với việc bán lẻ trực tuyến kiểu Mỹ là một rào cản lớn. Châu Á là nơi người tiêu dùng có khuynh hướng mặc cả và thanh toán bằng tiền mặt và việc mua sắm thường là công việc gia đình, ý niệm về việc mua sắm không có bóng dáng con người, trên một website và cần phải có thẻ tín dụng để kết thúc một giao dịch thật sự xa lạ với họ. Không quen thuộc với thẻ tín dụng và thiếu những đạo luật khuyến khích những giao dịch bằng thẻ tín dụng trực tuyến đảm bảo là một nguyên nhân khiến người Châu Á không mua sắm trực tuyến.

Ba cuộc điều tra này đã cho thấy mặc dù việc sử dụng Internet đã tăng rất nhanh, đặc biệt nhờ sự bùng nổ của công nghệ 3G, tuy nhiên mục đích và động cơ chủ yếu để người Việt Nam truy cập Internet vẫn là đọc báo lấy tin tức, tìm kiếm thông tin, nhận thư điện tử và chia sẻ với bạn bè, người thân qua mạng xã hội và các công cụ chia sẻ trực tuyến khác. Mặc dù số lượng người mua hàng qua mạng cũng đã tăng từ 4% năm 2008 lên 11% năm 2009, tỷ lệ các hộ gia đình đã quan tâm và tham gia vào giao dịch TMĐT là 15% vào năm 2010, trong đó, mặt hàng được chú ý tới nhiều nhất là quần áo, giày dép. Tuy nhiên, hai dịch vụ cơ bản của TMĐT là mua bán trực tuyến và thanh toán trực tuyến chỉ được 5% và 2% hộ gia đình sử dụng hàng ngày. Điều này cho thấy TMĐT đã dần thâm nhập vào đời sống của người tiêu dùng, một số hộ gia đình đã bước đầu làm quen với hình thức thương mại mới này; tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, người tiêu dùng vẫn chưa thực sự tiếp cận và chủ động thực hiện các giao dịch TMĐT hoàn chỉnh.

Về lý do chưa tham gia mua hàng trực tuyến, đa phần các hộ gia đình cho biết là do "thích mua hàng theo cách truyền thống". Mặt khác, lý do thứ hai chính là do nhiều hộ gia đình "chưa có cơ hội". Ngoài ra, một số lý do khác cũng có tỷ lệ cao như lo ngại về vấn đề bảo mật (21%), không biết cách (19%), không tiện lợi (16%). Về hình thức thanh toán, 60% các hộ gia đình đã mua hàng trực tuyến sử dụng phương thức thanh toán là trả tiền mặt khi giao hàng. Tỷ lệ sử dụng biện pháp thanh toán qua thẻ tín dụng và chuyển tiền tương ứng là 35% và 40%. Chưa có hộ gia đình tham gia khảo sát nào sử dụng hình thức ví điện tử để thanh toán trực tuyến… Còn bộ phận lớn người dân còn lại vẫn có nhận thức rất thấp, không đầy đủ hay thậm chí sai lệch về các hoạt động TMĐT này, dẫn đến hành vi “chưa thích nghi” với nền kinh tế điện tử - điều được các DN trong cuộc điều tra nhận định là trở ngại lớn nhất để phát triển TMĐT tại VN – như báo cáo TMĐT 2010 và 2011 đã chỉ ra cho thấy.

Ngoài ra, các vấn đề về văn hoá tiêu dùng cũng là một vấn đề mà các DN phải đối mặt khi phát triển các hoạt động IM. Người Việt Nam vẫn có thói quen “nhìn tận mắt”, tức là họ sẽ tin tưởng đối với các mặt hàng trực tiếp được cầm và sử dụng thử, trong khi đó hoạt động kinh doanh trên mạng internet lại chỉ mới cung cấp được những mặt hàng bằng hình ảnh và những thông tin đi kèm. Điều này đã gây khó khăn cho các DN trong việc tạo dựng lòng tin cho KH, và vấn đề đặt ra cho hoạt động IM là tạo dựng được lòng tin cho KH thông qua những chiến dịch truyền thông và các chiến lược IM khôn ngoan. Trong khi đó, sự minh bạch thông tin đang là vấn đề tồn tại ở nhiều quốc gia trong đó có VN, vấn đề thông tin là yếu tố quyết định gây ảnh hưởng lớn đến người tiêu dùng và có thể coi là vũ khí cạnh tranh sắc bén cho các DN kinh doanh trên môi trường mạng internet. Do đó, thông tin mà những người làm Marketing đưa ra luôn cần có sự chính xác và những nguồn tin cậy kèm theo nhằm tăng gia tăng lòng tin cho KH, điều này càng cần thiết đối với những NTD VN.

4. Đặc điểm của các DNVVN VN chi phối đến việc ứng dụng IM

Trong cộng đồng DN Việt Nam thì DN vừa và nhỏ (DNVVN) là loại hình DN chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế. Theo đó, loại hình DN này đóng vai trò quan trọng nhất là tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giúp huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển, xóa đói giảm nghèo… Cụ thể, về lao động, hàng năm tạo thêm trên nửa triệu lao động mới; Sử dụng tới 51% lao động xã hội và đóng góp hơn 40% GDP…[14]

DN nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương


tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của DN) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau [65]:




Quy mô


Khu vực

DN siêu nhỏ


DN nhỏ


DN vừa


Số lao động

Tổng nguồn vốn


Số lao động

Tổng nguồn vốn


Số lao động

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản


10 người trở xuống


20 tỷ đồng trở xuống


Từ trên 10 người đến 200 người

Từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng

Từ trên 200 người đến 300 người

II. Công nghiệp và xây dựng


10 người trở xuống


20 tỷ đồng trở xuống


Từ trên 10 người đến 200 người

Từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng

Từ trên 200 người đến 300 người

III. Thương mại và dịch vụ


10 người trở xuống


10 tỷ đồng trở xuống


Từ trên 10 người đến 50 người

Từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng

Từ trên 50 người đến 100 người

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 250 trang tài liệu này.


Tính đến hết năm 2011, cả nước có 623.700 DN đăng ký hoạt động, hầu hết trong số này là DNNVV. Theo Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME) Cao Sĩ Kiêm, hiện cả nước có gần 500 nghìn DNNVV, chiếm hơn 97% tổng số DN. Các DNNVV tạo ra 45 đến 50% khối lượng hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đóng góp 20% cho ngân sách nhà nước, thu hút 56% số lao động trong các DN. Đây là một trong những yếu tố đóng góp tích cực vào an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo bởi với tính linh hoạt, các DN này có thể đi vào tận các vùng, miền [12].

Đặc điểm hoạt động kinh doanh và Marketing của DN vừa và nhỏ VN: Nguồn lực kinh doanh:

Về nguồn lực tài chính: Nguồn vốn đầu tư thấp, khó tiếp cận được với các nguồn vốn vay. Khoảng 90% số DN phải đi vay vốn ngân hàng song các DN khá khó khăn trong việc tiếp cận với các nguồn vốn vay. Hạn chế trong việc đầu tư cho công nghệ và đổi mới trang thiết bị.

Nguồn nhân lực: Theo số liệu thống kê, có tới 55.63% số chủ DN có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ DN có trình độ học vấn từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Cụ thể, số người là tiến sỹ chỉ chiếm 0,66%; thạc sỹ 2,33%; đã tốt nghiệp đại học 37,82%; tốt nghiệp cao đẳng chiếm 3,56%; tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 12,33% và 43,3% có trình độ thấp hơn. Điều đáng chú ý là đa số các chủ DN ngay những ngưi có trình độ học vấn từ cao đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị DN

Hạn chế về trình độ công nghệ: Về trình độ sử dụng công nghệ, chỉ có khoảng 8% số DN đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là các DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). DN trong nước đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng cạnh tranh về công nghệ của các DN phía Bắc là rất thấp. Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số DN có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 60% nhưng chỉ có 11,55% DN có sử dụng mạng nội bộ - LAN, số DN có website là rất thấp; chỉ 2,16%


Hoạt động trong TTr ngách, TTr địa phương: Các DNVVN thường hoạt động trong phạm vi hẹp. Chính vì vậy, TTr mục tiêu của các DNVVN thường là những đoạn TTr ngách hoặc TTr địa phương. Những DN hoạt động trên phạm vi rộng về mặt địa lý thì thường chỉ có một số lượng ít các KH. Những DN có mạng lưới hoặc số lượng KH đông đảo thì thường chỉ hoạt động trong phạm vi địa phương hẹp (một hoặc một vài tỉnh). Chính vì vậy các DNVVN thường không được nhiều người biết đến. [55]

Đặc điểm hoạt động Marketing của các DNVVN VN

Nguồn lực dành cho hoạt động Marketing của các DNVVN: Do hạn chế về quy mô và nguồn lực tài chính nên nguồn đầu tư cho hoạt động Marketing của các DN vừa và nhỏ cũng hạn chế. Chính vì vậy, các DNVVN luôn phải tìm kiếm các phương thức hoạt động Marketing với chi phí thấp. Về nhân sự, rất ít DNVVN có lực lượng Marketing chuyên nghiệp. Thông thường hoạt động Marketing được thực hiện bởi nhân viên bán hàng hoặc nhân viên kinh doanh. Phần lớn DNVVN có KH mục tiêu là các tổ chức, các DN sản xuất thì hoạt động Marketing chủ yếu được thực hiện bởi ở ban lãnh đạo DN. Các DN kinh doanh thương mại hàng tiêu dùng thì hoạt động Marketing nằm trong lực lượng bán hàng. Tuy nhiên, lực lượng này thường chỉ thực hiện hoạt động tìm kiếm và duy trì quan hệ với KH. Hơn nữa, sự hiểu biết và năng lực Marketing của các DNVVN cũng rất hạn chế. Hầu hết các chủ DNVVN đồng thời là người điều hành DN song lực lượng này lại hạn chế về trình độ đào tạo (có tới 55,6% chủ DNVVN chỉ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp hoặc thấp hơn). Do hạn chế về nguồn lực tài chính và con người nên các hoạt động Marketing tại các DNVVN mang tính chất manh mún thiếu chuyên nghiệp.

Hoạt động Marketing: Phần lớn các DNVVN không có định hướng chiến lược lâu dài và không có chiến lược Marketing rõ ràng. Các hoạt động Marketing của các DNVVN được thực hiện một cách manh mún. Các DN thường chỉ là tập trung vào những hoạt động nhằm trực tiếp hỗ trợ và thúc đẩy bán hàng mà ít tập trung vào những hoạt động nhằm xây dựng thương hiệu. Rất chiều chủ, người lãnh đạo DNVVN nhận thức rằng hoạt động Marketing gắn liền với hoạt động truyền thông tốn kém và DN của họ không có nguồn chi cho các hoạt động đó. Trên thực tế, có rất nhiều hoạt động Marketing thậm chí là hoạt động truyền thông mà DN có thể thực hiện một cách hiệu quả mà không tốn nhiều chi phí.


PHỤ LỤC 1D

THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CHO CNTT VÀ TMĐT CỦA CÁC DN VN

Nguồn: tác giả tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau

1.Thực trạng đầu tư và ứng dụng CNTT và Internet trong hoạt động KD của các DN


Dữ liệu cho vấn đề này trước hết được tác giả tận dụng từ nguồn thông tin thứ cấp có sẵn, đó là các kết quả nghiên cứu từ các cuộc nghiên cứu về TMĐT của Cục TMĐT và CNTT - Bộ Công thương tiến hành hàng năm, từ 2003 đến 2011 [5-9]; từ cuộc điều tra đánh giá về Chỉ số sẵn sàng cho Kinh tế điện tử (E-readiness rankings) của Cơ quan tình báo kinh tế EIU, tiến hành hàng năm từ 2000 đến 2009 trên 70 nước khắp thế giới, trong đó có Việt Nam [81]; cuộc nghiên cứu trong khuôn khổ đề tài Khoa học cấp Bộ: “Nghiên cứu ứng dụng Marketing trực tuyến trong hoạt động thương mại của DN Việt Nam”- Viện nghiên cứu Thương mại – Bộ Công thương, năm 2007- 2008 [4].

Với mục tiêu tìm hiểu tình hình ứng dụng TMĐT của các DN Việt Nam, Cục TMĐT và CNTT – Bộ Công thương đã tiến hành khảo sát trên 3400 DN của cả nước về tình hình đầu tư của DN cho CNTT và truyền thông được phản ánh qua số máy tính sử dụng, mức độ xây dựng và sử dụng mạng máy tính nội bộ, tình trạng kết nối và sử dụng mạng Internet, mức độ ưu tiên chi cho CNTT trong DN và các chỉ tiêu khác [5-9]. (Mẫu điều tra và mục đích khảo sát của Bộ công thương hoàn toàn phù hợp với mục tiêu và đối tượng nghiên cứu của tác giả, nên các kết quả là sử dụng được một cách nhất quán và đáng tin cậy)

Máy tính là thiết bị phần cứng cơ bản cho ứng dụng CNTT và TMĐT nói chung, cũng như IM nói riêng, do đó các thống kê về máy tính là tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ sẵn sàng cho kinh doanh điện tử nhìn từ góc độ hạ tầng kỹ thuật của DN. Theo kết quả khảo sát nói trên của Bộ Công thương, 100% các DN đã trang bị máy tính và đều quan tâm đầu tư ít nhất một máy tính kể từ khi bắt đầu hoạt động.

Năm 2010, tỷ lệ máy tính trung bình trong mỗi DN là 17.8 máy tính/DN. Tỷ lệ này tương đối thấp so với trung bình của năm 2009 (25.8 máy tính/DN). Do mức độ chênh lệch về tỷ lệ DNVVN giữa hai năm, tỷ lệ tuyệt đối về số máy tính trong DN giảm là điều tất yếu. Do đó, cần xem xét tỷ lệ tương đối về số nhân viên trên một máy tính trong mỗi DN. Năm 2010, tỷ lệ này là 6.4, có xu hướng giảm dần qua các năm (năm 2009 là 8.2, năm 2008 là 10). Điều này cho thấy xu hướng tăng hàm lượng lao động tri thức trong DN, với số lượng nhân công sử dụng máy vi tính phục vụ cho công việc ngày càng tăng [9].

Nếu máy tính là thiết bị phần cứng cơ bản, thì Internet là môi trường thiết yếu cho ứng dụng TMĐT cũng như IM trong DN. Do đó chỉ tiêu kết nối Internet sẽ phản ánh một khía cạnh quan trọng của hành vi sẵn sàng ứng dụng IM. Trong cuộc điều tra của Bộ Công thương tiến hành năm 2007, 97% DN cho biết đã kết nối Internet, so với tỷ lệ 83% của ba năm trước và 92% của năm 2006. Trong số 3% DN chưa tiếp cận với Internet, một nửa cho biết đang lên kế hoạch kết nối vào năm 2008. Kết quả điều tra của năm 2010 và 2011 thì tỷ lệ DN kết nối Internet trên cả nước đạt 98%. Trong đó, 100% DN tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã kết nối Internet. Còn tại các địa phương khác, tỷ lệ này là 95%. Hình thức kết nối phổ biến nhất là qua ADSL với tỷ lệ 78% và đang có xu hướng giảm đi do các DN chuyển sang dùng kênh riêng với tỷ lệ 19%, chỉ còn lại 1% DN kết nối Internet qua phương thức quay số điện thoại [9].


Hình PL 1 Hình thức kết nối Internet của các DN Việt Nam năm 2011 Nguồn Báo cáo 1


Hình PL.1: Hình thức kết nối Internet của các DN Việt Nam năm 2011

Nguồn: Báo cáo TMĐT, Bộ Công thương, 2011, trang 60


Triển khai ứng dụng TMĐT có mối liên quan mật thiết với việc sử dụng các phần mềm trong các khâu của chu trình hoạt động sản xuất kinh doanh, từ những phần mềm thông dụng cho công tác văn phòng tới những phần mềm phức tạp hơn phục vụ quản trị nguồn lực DN, quản lý chuỗi cung ứng hay quản lý quan hệ KH. Việc sử dụng các phần mềm xử lý văn bản được coi là phổ cập đối với tất cả các DN đã có máy tính nên không được coi là một tiêu chí khảo sát.

Kết quả khảo sát qua các năm của Bộ cũng cho thấy ứng dụng CNTT trong công tác quản trị DN đang dần đi vào chiều sâu, khi các phần mềm tác nghiệp được sử dụng trở nên ngày càng đa dạng. Bên cạnh phần mềm tài chính kế toán vẫn tiếp tục duy trì vị trí là phần mềm thông dụng nhất (với gần 80% DN được khảo sát cho biết đã triển khai), các phần mềm quản lý kho, quản lý KH, quản lý nhân sự, v.v... cũng trở nên ngày càng phổ biến với tỷ lệ DN ứng dụng tăng đều qua các năm.

Theo kết quả điều tra năm 2011, hai nhóm phần mềm được sử dụng phổ biến nhất là phần mềm văn phòng (88%) và kế toán (79%). Các phần mềm phức tạp, đòi hỏi mức độ tổ chức cao của DN như ERP, CRM, SCM có tỷ lệ DN sử dụng thấp hơn với các tỷ lệ tương ứng là 4%, 15% và 17%. Có 21% DN tham gia khảo sát cho biết đã sử dụng phần mềm quản lý nhân sự. Tỷ lệ các DN sử dụng các phần mềm cơ bản này trong năm 2011 không có sự thay đổi đáng kể so với năm 2010 [9].

Xem tất cả 250 trang.

Ngày đăng: 23/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí