3. Mục tiêu nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu tổng quát của luận văn là làm rõ được các quy chế về nghề luật sư và hành nghề luật sư, hệ thống được các quy định pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục đích cuối cùng của luận văn, cần phải hoàn thành các mục tiêu cụ thể sau:
- Khái quát một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về luật sư và hành nghề luật sư ;
- Nắm bắt được thực trạng pháp luật về vấn đề này;
- Thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để thấy được những bất cập của pháp luật;
- Đề ra hướng hoàn thiện pháp luật.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam - 1
- Mối Quan Hệ Giữa Tổ Chức Hành Nghề Luật Sư Với Các Chủ Thể Khác Trong Quá Trình Hoạt Động Hành Nghề Luật Sư:
- Trách Nhiệm Pháp Lý Trong Hoạt Động Hành Nghề Luật Sư
- Các Quy Định Về Điều Kiện Hành Nghề
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
4.1. Tính mới của đề tài
Vấn đề hành nghề luật sư đang nhận được rất sự quan tâm của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội hiện nay. Chính vì thế đã có khá nhiều đề tài khoa học và các bài viết về vấn đề này. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến một lĩnh vực, một khía cạnh của vấn đề hành nghề luật sư. Chưa có một công trình nào khái quát được vấn đề pháp lý của các lĩnh vực, các khía cạnh nêu trên. Đề tài “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam” nghiên cứu một cách toàn diện, có tính hệ thống về luật sư và hành nghề luật sư, các quy định pháp luật liên quan đến mọi khía cạnh của hành nghề luật sư ở Việt Nam. Đề tài có tính mới, và tính khái quát cao hơn các đề tài đã được thực hiện.
4.2 Những đóng góp của đề tài:
Đề tài giúp người nghiên cứu và những người đọc có được sự hiểu biết bao quát về hành nghề luật sư ở Việt Nam cùng với những quy định của pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài còn mang đến cái nhìn thực tế trong thực trạng hành nghề luật sư ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Từ kết quả nghiên cứu vận dụng đưa ra kiến nghị xây dựng pháp luật nhằm điều chỉnh một
cách toàn diện những quan hệ của nghề luật sư hướng tới phục vụ tốt nhu cầu trợ giúp pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về hành nghề luật sư đang tồn tại một số khái niệm chưa được làm rõ hoàn toàn như: khái niệm hành nghề luật sư, khái niệm cung cấp dịch vụ pháp lý. Vì vậy khái niệm hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam hiện nay thường được bao trùm trong khái niệm cung cấp dịch vụ pháp lý.
Trên cơ sở phân biệt các khái niệm đã nêu và cố gắng làm rõ khái niệm về cung cấp dịch vụ pháp lý, Luận văn tập trung giải quyết vấn đề pháp lý của giao dịch cung cấp dịch vụ pháp lý. Đây là hoạt động thương mại của tổ chức hành nghề luật sư, thuộc phạm vi nghiên cứu trong mã nghành luật kinh tế. Việc Luận văn đôi chỗ đề cập đến vấn đề quy chế hành nghề, quy tắc nghề nghiệp chỉ với mục đích đơn thuần là làm rõ thêm thực trạng về pháp luật luật sư ở Việt Nam.
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nội dung sau: Những vấn đề lý luận về hành nghề luật sư; Thực trạng pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam; Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật hành nghề luật sư ở Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về hành nghề luật sư, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất cập
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về hành nghề luật sư
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hành nghề luật sư
1.1.1 Khái niệm luật sư, hành nghề luật sư và cung cấp dịch vụ pháp lý
Từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại đến thời kỳ Trung cổ, nghề luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội tuy nhiên vẫn mang tính tự phát và Luật sư thời kỳ này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế bởi chế độ xã hội chuyên quyền hà khắc. Đến chế độ tư bản, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, “nhu cầu của người dân đối với việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn thường trực. Nghề luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự do” [8]. Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng, và thực sự nghề luật sư luôn là một trong những nghề được yêu thích nhất.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niêm luâṭ sư và haǹ h nghề luâṭ sư .
Đaị từ điển Tiếng Viêṭ do Nhà xuất bản Đaị hoc Quốc gia Thaǹ h phố Hồ Chí Minh
điṇ h nghia
Luâṭ sư là “người có chứ c trách dùng pháp luâṭ bào chữa cho bi ̣can
trước Tòa án ” [51, tr970]. Theo cách hiểu của dân gian thì “Luật” ở đây là luật
pháp, còn “sư” nghĩa là thầy ; Luật sư có nghĩa là người thầy trong linh vực pháp
luật (người ta còn goi
là thầy cãi ). Tuy nhiên các khái niệm này chỉ đề cập tới một
khía cạnh cụ thể của luật sư đó là tranh tụng chưa giúp người đọc có được cái nhìn khái quát, toàn diện về khái niệm luật sư.
Lại có quan niệm khác cho rằng : “Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật mỗi quốc gia” [8]. Khái niệm này lại quá rộng , chưa phân biêṭ đươc
luâṭ sư với
những người hành nghề liên quan đến pháp luâṭ khác như thẩm phán , kiểm sát viên, (ở Việt Nam), công tố viên (ở Mỹ), ủy viên công tố (ở Cộng hòa Czech)….
Khái quát các quan niệm trên có thể đưa ra khái niệm : Luật sư là những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật về luật sư nhằm thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
Về khái niệm hành nghề luật sư và khái niệm cung cấp dịch vụ pháp lý. Từ các quan niệm khác nhau về luật sư, khái niệm hành nghề luật sư cũng còn nhiều cách hiểu chưa thống nhất. Theo cách hiểu của dân gian luật sư là thầy cãi và cách
định nghĩa về luật sư của đại từ điển Tiếng Viêṭ do Nhà xuất bản Đaị hoc
Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh thì hành nghề luật sư là việc luật sư tranh tụng bảo vệ
quyền lợi cho các đương sự trong quá trình xét xử của Tòa án. Tuy nhiên các khái niệm trên đều mới chỉ đề cập tới một lĩnh vực hành nghề của luật sư đó là tranh tụng nên chưa đúng và đầy đủ.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn nghiên cứu hoạt động hành nghề luật sư dưới góc độ thương mại. Theo đó, hoạt động hành nghề luật sư là một hoạt động thương mại do tổ chức hành nghề luật sư tiến hành, cung ứng dịch vụ pháp lý tới khách hàng, với mục đích nhận thù lao.
Quan niệm trên phát sinh thêm một khái niệm cần làm rõ là khái niệm dịch vụ pháp lý. Hiện nay còn tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ pháp lý. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (viết tắt là GATS) không định nghĩa dịch vụ pháp lý mà chỉ liệt kê các loại DVPL. Trong khuôn khổ của Hiệp định GATS, các loại DVPL này được hiểu là các loại DVPL mang tính thương mại. Theo phân loại của WTO, dịch vụ được chia thành 11 ngành chính, mỗi ngành chính lại phân chia thành nhiều phân ngành nhỏ, tổng số gồm 155 phân ngành. Dịch vụ kinh doanh là một trong 11 ngành chính và dịch vụ pháp lý là một phân ngành của Dịch vụ kinh doanh. Theo “Bảng phân loại các ngành dịch vụ” của WTO “dịch vụ pháp luật” được liệt kê với tư cách là tiểu ngành dịch vụ của “dịch vụ chuyên môn” nằm trong ngành dịch vụ thứ nhất: “1. Dịch vụ kinh doanh”. Dịch vụ pháp luật được chia thành nhiều loại: Dịch vụ tư vấn và tranh tụng trong nhiều lĩnh vực pháp luật ; Dịch vụ tư vấn và tranh tụng liên quan đến luật hình sự ; Dịch vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục tại tòa án liên quan đến các lĩnh vực pháp luật khác; Dịch vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục theo quy định của luật thành văn tại các tổ chức mang tính tòa án; Dịch vụ cung cấp và chứng nhận hồ sơ pháp luật; Dịch vụ khác về thông tin pháp luật và tư vấn.
Theo Từ điển Luâṭ hoc
của Viên
Khoa hoc
pháp lý , "dịch vụ pháp lý là loại
hình dịch vụ do nh ững tổ chức , cá nhân có hiểu biết , có kiến thức và chuyên môn pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện , nhằm đáp
ứng nhu cầu được biết, đươc
nhân trong xã hôị ".
tư vấn hoăc
giúp đỡ về măṭ pháp lý của các tổ ch ức, cá
Theo Nguyên Văn Tuâń "dịch vụ pháp lý là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp
luâṭ và dic̣ h vu ̣đaị diên phaṕ lý… những người đủ tiêu chuân̉ để cung câṕ DVPL
chỉ có thể là luật sư ". Theo đó , phạm vi D VPL đươc xać điṇ h gồm : Dịch vụ tư vấn
pháp luật; Dịch vụ đại diện pháp lý (trong tố tuṇ g tư pháp, trong thủ tuc haǹ h chính,
tố tuṇ g troṇ g tài và đaị diên theo uỷ quyêǹ về những vâń đề liên quan đêń phaṕ luât ;
Các hoạt đôṇ g DVPL khác (soạn thảo hợp đồng, các giấy tờ pháp lý…) [47, Tr 46].
Theo TS . Nguyên
Văn Tuân thì "phạm vi dịch vụ pháp lý bao gồm dịch vụ
pháp lý của luật sư với bốn lĩnh vực hành nghề như pháp luật hiện hành quy định tư
vấn pháp luâṭ, tranh tuṇ g, đaị diên và dịch vụ pháp lý khác và dịch vụ pháp lý của tổ
chứ c, đoàn thể xã hôi với hoaṭ đôṇ g chủ yêú là tư vâń phaṕ luâṭ theo Nghi ̣điṇ h
65/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ về tổ chức , hoạt động tư vấn pháp luật" [46, Tr 18].
Theo TS. Đặng Vũ Huân thì "dịch vụ pháp lý là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý được định lập và thực hiện theo quy định pháp luật của nước nơi các dịch vụ đó được định lập và có thể được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật nội dung và thủ tục tố tụng khác nhau của hệ thống pháp luật quốc gia" [18, Tr 10].
Theo Nguyên
Như Chính "Dịch vụ thương mại pháp lý là loại hình dịch vụ
liên quan tới lin
h vưc
pháp luât
mà công việc của bên cung ứng dịch vụ thực hiện
cho khách hàng để hưởng lơi
nhuân
có liên quan chăṭ chẽ với các vấn đề pháp luât ,
quyền và nghia vu ̣theo phaṕ luâṭ mà bên sử duṇ g dic̣ h vu ̣quan tâm ".
Có thể nhận thấy đa số các nghiên cứu về dịch vụ pháp lý tại Việt Nam đều tiếp cận dịch vụ pháp lý dưới góc độ thương mại.
Từ các khái niệm dịch vụ pháp lý như trên, có thể đưa ra khái niệm cung cấp dịch vụ pháp lý như sau: Cung cấp dịch vụ pháp lý là là một hoạt động thương mại
dịch vụ gắn liền với pháp luật do các tổ chức đủ điều kiện theo quy định của pháp luật cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của các tổ chức, cá nhân.
Theo khái niệm trên thì hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm cả hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức hành nghề thừa phát lại.... Tuy nhiên trong khuôn khổ Luận văn, chỉ nghiên cứu dịch vụ pháp lý được cung ứng bởi tổ chức hành nghề luật sư, tập trung giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan tới giao dịch cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư.
Theo đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn đi sâu phân tích vấn đề hành nghề luật sư dưới góc độ là một hoạt động thương mại do các tổ chức hành nghề luật sư tiến hành với nội dung là cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng và mục đích là nhận thù lao.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động hành nghề luật sư
Hoạt động hành nghề luật sư là một hoạt động thương mại. Hiện nay đa số các nước trên thế giới đều thừa nhận cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là một hoạt động vừa mang tính nghề nghiệp, vừa mang tính lợi nhuận. Vì lợi nhuận mà tiến hành các hoạt động hành nghề luật sư. Khi thành lập các tổ chức hành nghề luật sư, hầu hết các quốc gia đều mượn hình thức của các doanh nghiệp thông thường. Ở Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Hoạt động hành nghề luật sư là hoạt động nghề nghiệp nhưng vì mục tiêu lợi nhuận. Trong hệ thống văn bản pháp luật quy định về hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam cũng dành cho Hoạt động pháp luật một mã ngành riêng. Hiệp định chung về thương mại Dịch vụ GATS và hiệp định thương mại Việt Mỹ đều có quy định về các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư. Như vậy hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là một hoạt động vừa mang tính chất nghề nghiệp, vừa mang tính chất thương mại. Tuy nhiên hoạt động này liên quan đến vấn đề pháp luật (một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia) nên cần có cơ chế đặc thù dành cho nó.
Hoạt động hành nghề luật sư phải dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp. Trong Nhà nước pháp quyền , tất cả các nghề nghiêp
đều phải dưa
trên
pháp luật. Tuy nhiên nghề Luâṭ sư là nghề sử duṇ g pháp luâṭ làm công cu ̣chủ yếu
để hành nghề . Pháp luật là nền tảng để luật sư hành nghề. Môt
người muốn trơ
thành luật sư phải đáp ứng được các tiêu chuẩn và điều kiện mà pháp luật đặt ra . Các công việc Luật sư tiến hành cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật . Trong quá trình hành nghề , luâṭ sư sử duṇ g pháp luâṭ để tư vấn , tranh tuṇ g và thưc̣
hiên
các dic̣ h vu ̣pháp lý khác cho thân chủ của mình , đồng thời thông qua đó tuyên
truyền pháp luâṭ để người dân hiểu pháp luâṭ và tuân theo pháp luât
. Nghề luâṭ sư
gắn liền với số phân của con người nên ngoaì cać kiêń thứ c về phaṕ luâṭ nghề luât
sư còn có quy chế trách nhiêm
nghề nghiêp
riêng . Pháp luật có tác dụng như “hành
lang”, “khuôn mẫu chung” cho luật sư hoạt động, còn quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư lại chủ yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt động
nghề nghiệp và trong xã hội . Trong đời sống xã hôị , vấn đề đao đứ c , uy tín đôi khi
lại ràng buộc trách nhiệm của công dân hơn là những quy định của pháp luậ t. Pháp
luâṭ cũng sẽ là nền tảng vững chắc hơn khi ý thứ c pháp luâṭ đươc hình thaǹ h từ tính
tư ̣ giác, đao
lý và trách nhiêm
của mỗi công dân . Nghề luâṭ sư cũng vây
, các quy
chế trách nhiêm
nghề nghiêp
tuy là các quy tắc về đạo đức nhưng cũng đòi hỏi phải
được sự tôn trọng từ phía các luật sư. Trong nhiều trường hợp, đối với nghề nghiệp luật sư, các quy tắc ứng xử thuộc về phạm trù đạo đức lại chi phối và có tác động lớn lao đến uy tín, danh dự của luật sư và ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Hoạt động hành nghề luật sư còn là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắc . Nhiều người so sánh nghề luâṭ sư với nghề bác sỹ. Nghề bác sỹ bảo vê ̣sứ c khỏe con người, chữa tri ̣khi con người mắc bêṇ h . Còn nghề luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
con người , “chữa tri”
khi quyền và lơi
ích đó bi ̣xâm pham
. Luâṭ sư giống như
người bác sỹ chữa “căn bêṇ h” liên quan đến pháp luâṭ của con người . Mỗi hoaṭ đôṇ g hà nh nghề luâṭ sư đều hướng tới con người ; tư vấn pháp luâṭ , tranh tuṇ g hay
thưc
hiên
các dic̣ h vu ̣pháp lý khác đều hướng tới con người và vì con người . Trong
viêc
tư vấn pháp luâṭ , chắc chắn chủ thể đươc
tư vấn phải là co n người cu ̣thể hoăc
môt
tổ chứ c của con người , và mục đích của tư vấn cũng là vì quyền và lợi ích của
con người hoăc tổ chứ c của con người đó . Trong hoaṭ đôṇ g tố tuṇ g , mỗi hoaṭ đôṇ g
tố tuṇ g của luâṭ sư đều nhằm vào con người môt
cách trưc
tiếp hoăc
gián tiếp .
Những hoaṭ đôṇ g này liên quan đến tính mạng , tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín,