tạp nhất, quản lý và phòng ngừa khó khăn nhất, đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiếu tối đa những thiệt hại có thể xảy ra.
Theo Điều 3, Thông tư 02/2013/TT-NHNN của Thống đốc NHNN thì: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là tổn thất có khả năng xảy ra đối với nợ của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình theo cam kết”.
Rủi ro tín dụng xuất hiện trong quá trình cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng, bao thanh toán và các hình thức cấp tín dụng khác, kể cả việc ngân hàng mua trái phiếu của các doanh nghiệp.
1.2.2. Phân loại
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại:
- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của RRTD mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh giá khách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận chính: rủi ro lựa chọn, rủi ro đảm bảo, rủi ro nghiệp vụ.
Rủi ro lựa chọn: liên quan đến thẩm định và phân tích tín dụng.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội Chi nhánh Huế - 1
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội Chi nhánh Huế - 2
- Nội Dung Của Công Tác Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- So Sánh Ưu, Nhược Điểm Của Các Phương Pháp Tính Var
- Thực Trạng Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Rủi ro đảm bảo: phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo.
Rủi ro nghiệp vụ: liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân thành hai loại là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
Rủi ro nội tại: xuất phát từ các yếu tố mang tính riêng biệt của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế, v.v…
Rủi ro tập trung: là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp trong một ngành, lĩnh vực kinh tế, hoặc trong một vùng địa lý hay cùng loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2.3. Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
1.2.3.1. Nguyên nhân bên trong Ngân hàng
- Công tác kiểm tra nội bộ lỏng lẻo: Kiểm tra nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức. Kiểm tra nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống này càng phải an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới.
- Cán bộ thiếu đạo đức hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ kém: Một số vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến cán bộ NHTM đều có sự tiếp tay của một số cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng làm giả hồ sơ vay, hay nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên quá cao so với thực tế để rút tiền ngân hàng. Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế RRTD. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
- Thiếu sự giám sát và quản lý sau khi vay: Các ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Theo dõi nợ là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.
- Sự hợp tác của các NHTM thiếu chặt chẽ: Các ngân hàng cần hợp tác chặt chẽ với nhau khi một khách hàng vay tiền tại nhiều ngân hàng. Khả năng trả nợ của một khách hàng đối với nhiều chủ nợ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu thiếu trao đổi
thông tin, nhiều ngân hàng có thể cùng cho vay một khách hàng mà không được thường xuyên cập nhật thông tin, hoặc phải gia tăng chi phí để có cùng một thông tin. Nhưng khi rủi ro xảy ra, tổn thất có thể đến với bất cứ ngân hàng nào.
- Không sẵn có những thông tin cần thiết cho quá trình ra quyết định tín dụng: Chất lượng của thông tin có tác động trực tiếp đến tính chính xác của quyết định tín dụng được đưa ra. Cơ sở dữ liệu nghèo nàn trong và ngoài ngân hàng về khách hàng và môi trường kinh doanh của khách hàng có thể đưa ngân hàng đến những quyết định sai lầm, tín dụng được cấp cho những khách hàng có khả năng trả nợ kém, chậm phát hiện rủi ro, biện pháp xử lý rủi ro không phù hợp với nguyên nhân gây ra rủi ro.
Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC (Trung tâm thông tin tín dụng) là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có các quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời.
1.2.3.2. Nguyên nhân bên ngoài Ngân hàng
a. Nguyên nhân từ phía khách hàng
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau từ phía khách hàng gây ra tổn thất trong hoạt động tín dụng cho ngân hàng, có thể do khách hàng cố ý hay gặp khó khăn khách quan trong quá trình sử dụng vốn vay.
- Sử dụng vốn sai mục đích: Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án sử dụng vốn cụ thể với mục đích nhất định. Cán bộ ngân hàng sẽ xem xét tính khả thi của các phương án đó và quyết định có cho khách hàng vay hay không, số lượng và thời hạn bao nhiêu. Tuy nhiên có những khách hàng sử dụng vốn sai mục đích không nằm trong phương án ngân hàng đã xét duyệt, vì thế không đảm bảo được việc hoàn trả nợ, gây ra tổn thất lớn cho ngân hàng, mất uy tín của cán bộ tín dụng.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém: Đối với khách hàng là doanh nghiệp, quản lý cũng là một yếu tố sống còn. Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh
nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Tình hình tài chính của doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Để yên tâm hơn khi cho vay, ngân hàng vẫn luôn coi tài sản thế chấp như chỗ dựa cơ bản để phòng chống rủi ro tín dụng.
- Thiếu thiện chí trong việc trả nợ vay: Đây là vấn đề liên quan đến đạo đức của người đi vay. Việc thẩm định một khách hàng cố tình lừa đảo sẽ khó khăn hơn nhiều so với một khách hàng tìm đến ngân hàng với nhu cầu sử dụng tiền vay thực sự. Để có thể nhận biết được âm mưu cố tình lừa đảo của khách hàng không chỉ đòi hỏi sự nhạy bén của cán bộ tín dụng mà còn cần một quy trình tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng chặt chẽ, đồng thời với việc tuân thủ chặt chẽ các quy trình này của cán bộ tín dụng.
b. Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài
- Môi trường kinh tế không ổn định
Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới: Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm, nguyên liệu), dầu thô, may gia công,..vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tác động khi thị trường thế giới biến động xấu. Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng rất dễ bị ảnh hưởng. Mặt hàng sắt thép chịu ảnh hưởng lớn bởi giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút.
Sự tấn công của hàng nhập lậu: Với hàng trăm km biên giới trên bộ, trên biển cùng địa hình địa lý phức tạp và tình hình đời sống nghèo khó của dân cư vùng biên giới, cuộc chiến đấu với hàng lậu đã kéo dài dai dẳng từ nhiều năm nay mà kết quả là hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này. Các mặt hàng kim khí, điện máy, gạch men, đường cát, vải vóc, quần áo, mỹ phẩm,.. là những ví dụ tiêu biểu cho tình hình hàng lậu ở nước ta.
Thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành: Nền kinh tế thị trường tất yếu sẽ dẫn đến cạnh tranh, các nhà kinh doanh sẽ tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ và do đó có sự chuyển dịch vốn từ ngành này qua ngành khác và đây cũng là một hiện tượng khách quan. Tuy nhiên ở nước ta thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không đi kèm với sự quy hoạch hợp lý, hợp tác, phân công lao động, chuyên môn hóa lao động, sự bất lực trong vai trò của các hiệp hội nghề nghiệp và sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Điều này dẫn đến sự gia tăng quá đáng vốn đầu tư vào một số ngành dẫn đến khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia.
- Môi trường tự nhiên biến đổi nhanh chóng: Thiệt hại do thiên tai (bão lụt, động đất, lốc xoáy,..) rất khó lường trước và có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng. Ngày nay, sự biến đổi khí hậu đang diễn ra ngày càng nhanh chóng và mạnh mẽ có thể làm trầm trọng thêm hậu quả của thiên tai.
- Môi trường pháp lý chưa đầy đủ và chồng chéo
Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Bên cạnh đó, nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát của NHNN lạc hậu, chậm được đổi mới. Vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập. Do vậy mà có những sai phạm của các NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả nặng nề đã xảy ra rồi mới can thiệp.
Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập: Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là “cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp” một cách độc lập và hiệu quả, thông tin còn đơn điệu, thiếu cập nhật.
Tóm lại, RRTD có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam. Biện pháp phòng ngừa RRTD sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý RRTD của ngành ngân hàng coi như đã đi được hơn một nửa.
1.2.4. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
1.2.4.1. Ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng
Các nhà kinh tế thường gọi ngân hàng là “ngành kinh doanh rủi ro”. Thực tế đã chứng minh không một ngành nào mà khả năng dẫn đến rủi ro lại lớn như kinh doanh tiền tệ- tín dụng. Ngân hàng phải gánh chịu những rủi ro không những do nguyên nhân chủ quan của mình, mà còn phải gánh chịu những rủi ro do khách hàng hay môi trường bên ngoài gây ra. Vì vậy “rủi ro tín dụng của ngân hàng không những là cấp số cộng mà còn là cấp số nhân rủi ro của nền kinh tế”.
Khi rủi ro xảy ra, trước hết lợi nhuận kinh doanh của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu rủi ro xảy ra ở mức độ nhỏ thì ngân hàng có thể bù đắp bằng khoản dự phòng rủi ro và lợi nhuận thu được trong kỳ. Tuy nhiên nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh lời và mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nghiêm trọng hơn, khi RRTD xảy ra ở mức độ lớn, dự phòng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin khách hàng giảm tất nhiên sẽ dẫn đến phá sản ngân hàng. Vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là một việc làm cần thiết trong mọi ngân hàng.
1.2.4.2. Ảnh hưởng đến nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng liên quan đến nhiều thành phần kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho đến các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống của các khách hàng cá nhân. Khi RRTD xảy ra, không chỉ ngân hàng không thu hồi được vốn, mà mục tiêu sử dụng vốn của khách hàng cũng không được đảm bảo, đồng thời gây khó khăn cho những lần vay vốn tiếp theo. Nếu rủi ro xảy ra ở quy mô lớn, tốc độ phát triển của nền kinh tế, của ngành hay vùng có thể bị chậm lại và suy giảm. Do vậy, phòng ngừa và hạn chế RRTD không những là vấn đề sống còn đối với ngân hàng mà còn là yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế, góp phần vào sự phát triển ổn định toàn xã hội.
1.2.4.3. Ảnh hưởng đến khách hàng
Những khoản nợ do không trả gốc và lãi đúng hạn bị chuyển xuống nhóm nợ khác sẽ càng làm tăng thêm áp lực và gánh nặng cho người đi vay nếu họ đang gặp điều kiện thị trường và sự cố bất lợi trong khi sử dụng vốn vay. Khách hàng có thể phải chịu phí phạt và sự giám sát ngặt nghèo hơn của ngân hàng. Nếu RRTD xảy ra nhiều, các ngân hàng sẽ thắt chặt quy trình tín dụng hơn, khiến cho thủ tục cấp vốn ngày một thêm phức tạp, tốn thời gian và khách hàng khó tiếp cận nguồn vốn hơn.
1.3. Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại
1.3.1. Quan niệm về rủi ro tín dụng
“Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách, biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững” [6, tr.17]. Việc quản trị hiệu quả rủi ro tín dụng là yếu tố quyết định nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của ngân hàng khi mà sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM ngày một gia tăng.
Đối với một ngân hàng, khi chấp nhận cho khách hàng vay là chấp nhận rủi ro. Lãi của món vay giúp ngân hàng không chỉ bù đắp chi phí nguồn vốn và chi phí hoạt động để quản lý món vay mà còn bù đắp những tốn thất có thể xảy ra. Tuy nhiên, nếu không có biện pháp hạn chế, tổn thất của ngân hàng có thể sẽ rất lớn khi ngân hàng không thể thu hồi được toàn bộ giá trị của gốc và lãi và không có khoản lãi nào có thể bù đắp được. Vì vậy, quản lý rủi ro chặt chẽ giúp ngân hàng đánh giá chính xác nguy cơ gây rủi ro của khách hàng trước khi cho vay, làm cơ sở để đưa ra quyết định tín dụng phù hợp, đồng thời sớm phát hiện được rủi ro từ những khác hàng đang vay vốn, nhanh chóng xử lý rủi ro từ khi mới chớm xuất hiện, để giảm thiểu khả năng mất vốn và lãi.
Các nhà quản trị cần nhận thức được không có một quá trình quản trị rủi ro nào có thể tạo ra một môi trường hoàn toàn không có rủi ro. Điều quan trọng là quản trị rủi ro giúp quá trình điều hành quản lý hiệu quả hơn trong môi trường rủi ro. Hiểu một cách đơn giản, quản trị rủi ro chính là quá trình các NHTM sử dụng các nguyên lý, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị ngân hàng vào hoạt động kinh doanh ngân hàng