nhân.
Thứ hai, Ngân hàng TMCP Phương Đông cần tập trung cho các loại hình tín dụng ngắn hạn, đặc biệt là tài trợ thương mại và đẩy mạnh tài trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ ba, Ngân hàng TMCP Phương Đông cần mở rộng mạng lưới phòng giao dịch tại các trung tâm kinh tế, khu dân cư để mở rộng thị trường bán lẻ như cho vay tiêu dung, mua bất động sản, cho vay cán bộ công nhân viên, cho vay thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Thứ tư, Ngân hàng TMCP Phương Đông cần phân tán rủi ro tín dụng,
nghiên cứu và công bố các cơ cấu tín dụng theo ngành nghề, lĩnh vực, loại hình cho vay.
Thứ năm, Ngân hàng TMCP Phương Đông cần phân tích toàn bộ danh mục cho vay, đánh giá tổng thể về chất lượng tín dụng cũng như những loại hình rủi ro tín dụng dự kiến và khả năng ứng phó. Phân tích danh mục cho vay cần thống kê và phân tích: các loại hình cho vay, giá trị khoản vay; danh mục cho vay theo phân loại rủi ro.
Có thể bạn quan tâm!
- Trích Lập Dự Phòng Rủi Ro Ngân Hàng Ocb Năm 2014 – 2016
- Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Quản Trị Tmcp Phương Đông
- Giải Pháp Hoàn Thiện Hoạt Động Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Tmcp Phương Đông
- Xây Dựng Hệ Thống Cảnh Báo Sớm Rủi Ro Tín Dụng
- Nguyễn Quang Hiên, Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Quân Đội”, Luận Án Tiến Sỹ Kinh Tế, Học Viện Tài Chính, Hà Nội 2016
- Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Đông - 16
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
3.1.2.3 Xác định hạn mức rủi ro trong hoạt động tín dụng
Hạn mức rủi ro tín dụng có thể được hiểu như là mức rủi ro cao nhất mà ngân hàng chấp nhận trong kinh doanh tín dụng. Hạn mức rủi ro tín dụng thường được quy định dưới hình thức tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ. Trong giai đoạn 2014
– 2016, Ngân hàng TMCP Phương Đông đã đạt được mục tiêu khống chế tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. Mặc dù, tỷ lệ nợ xấu đang được kiểm soát ở mức thấp, nhưng hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn tồn tại nhiều nhân tố rủi ro tiềm tàng. Do vậy, hạn mức rủi ro cần phải được xác định theo các nội dung sau:
Chú trọng hơn tới mục tiêu an toàn, giảm việc tăng trưởng tín dụng quá
nóng.
Xác định hạn mức rủi ro cụ thể cho từng ngành, từng loại hình khách hàng và nhóm khách hàng liên quan nhằm kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng.
3.1.2.4 Thu thập thông tin và hồ sơ tín dụng
Ngân hàng cần thực hiện quản lý dữ
liệu tập trung thông tin tín dụng,
đảm bảo có sãn thông tin cho các nhà quản trị khi ra quyết định cho vay. Do vậy, ngân hàng cần phải mở rộng và chuẩn hóa việc thu thập thông tin liên quan phục vụ cho việc thẩm định tín dụng như:
Ngân hàng cần xây dựng hệ thống thông tin quản lý đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin về pháp lý, tài chính, hoạt động kinh doanh của khách hàng; các yếu tố bên ngoài như mô trường pháp lý, chính sách đầu tư.
Tuyển dụng và đào tạo đội ngũ chuyên gia, phân tích, dự thống quản trị rủi ro tín dụng.
báo về hệ
Thường xuyên, kiểm tra, nâng cấp hệ thống thông tin để đáp ứng nhu cầu quản trị rủi ro tín dụng trong từng giai đoạn.
3.1.2.5 Hoàn thiện công tác thu hồi nợ
Thu hồi nợ là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa những thiệt hại xảy ra cho ngân hàng. Việc thực hiện thu hồi nợ cần có các biện pháp cụ thể như:
Phân tích nguyên nhân nợ quá hạn của từng khách hàng, từ đó có những biện pháp tháo gỡ. Đối với những khách hàng nợ quá hạn tạm thời, ngân hàng cần xem xét khả năng trả nợ và phương án sử dụng vốn vay để quyết định cho vay. Việc cho vay đảm bảo thu hồi vốn giúp khách hàng vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ có thể áp dụng các biện pháp thực hiện cơ cấu nợ cho khách hàng. Còn đối với khách hàng khó khăn về tính hình tài chính, nợ quá hạn chưa
xác định nguồn trả, ngân hàng cần quản lý chặt chẽ khoản vay như: rà soát lại tài sản bảo đảm để tiến hành thanh lý, phát mại tài sản để thu hồi vốn; yêu cầu khách hàng cam kết chuyển nguồn thu về tài khoản tại ngân hàng.
Biện pháp khởi kiện ra tòa được áp dụng đối với những khách hàng không có thiện chí trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
3.1.2.6 Nâng cao trình độ và phẩm chất đạo đức cán bộ tín dụng
Để hoàn thiện công tác quản trị rủi ro, Ngân hàng TMCP Phương Đông cần phải đặc biệt quan tâm đến yếu tố con người. Cán bộ tín dụng, được coi là những người đầu tiên bảo vệ ngân hàng trước những thiệt hại về tín dụng. Do đó, cán bộ tín dụng phải có kỹ năng, khả năng nhận biết sớm những dấu hiệu rủi ro và tuân thủ quy tắc đạo đức sau:
Thực hiện các công việc được giao với tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, minh bạch, công khai.
Không được sử dụng thông tin, chỉ đạo nội bộ để phục vụ cho bất kỳ tổ chức khác hoặc mục đích cá nhân.
Không được sử dụng nguồn lực ngân hàng cho mục đích cá nhân.
Ngân hàng TMCP Phương Đông nên tổ chức thi nghiệp vụ cho toàn thể cán bộ định kỳ hàng năm, nhằm bổ sung và củng cố kiến thức phục vụ cho công tác. Đồng thời, ngân hàng cần tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao trình độ và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ tín dụng.
3.2 Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Đông
3.2.1 Cải cách cơ cấu bộ máy quản trị rủi ro
Mục tiêu hoạt động của khối quản trị rủi ro là soạn thảo và đưa ra khuyến nghị cho Hội đồng quản trị phê duyệt chiến lược, chính sách quản trị rủi ro, đảm
bảo mức độ rủi ro chấp nhận phù hợp với lợi nhuận kỳ vọng của cổ đông. Để hoàn tất mục tiêu trên, cơ cấu tổ chức của khối quản trị rủi ro phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Độc lập khỏi chức năng kinh doanh;
Được đứng đầu bởi một thành viên Ban Điều hành không chịu trách nhiệm về kinh doanh hoặc các trách nhiệm khác ngoài quản trị rủi ro;
Chịu trách nhiệm trực tiếp với Hội đồng quản trị;
Trách nhiệm, quyền hạn của Khối quản trị rủi ro tín dụng:
Thiết lập khung thống nhất toàn hàng để đo lường, giám sát và đánh giá các rủi ro có thể lượng hóa. Ngân hàng TMCP Phương Đông ghi nhận một thực tế là phương pháp đánh giá rủi ro mặc dù đã được hướng dẫn trên quy mô toàn ngân hàng, nhưng đây chỉ là những hướng dẫn mang tính định hướng, chưa đưa ra các chuẩn mực cụ thể và rủi ro chưa được lượng hóa hoàn toàn. Nhiệm vụ của khối rủi ro là nghiên cứu và đưa ra các mô hình, hướng dẫn để lượng hóa rủi ro và thường xuyên cập nhật những kỹ thuật rủi ro tiên tiến trên thế giới. Chịu trách nhiệm đo lường, giám sát và đánh giá rủi ro. Khối quản trị rủi ro tín dụng một mặt thiết kế các thước đo rủi ro, một mặt phải chịu trách nhiệm sử dụng những thước đo để đo lường, đánh giá rủi ro. Ngoài ra, khối rủi ro phải luôn đảm bảo các quy trình quản trị rủi ro mà họ đưa ra luôn được tuân thủ trên toàn hệ thống. Đảm bảo tính hiệu quả, thực thi của các phương pháp, thước đo rủi ro tín dụng. Các phương pháp, thước đo rủi ro không mang tính bên vững với thời gian do nó bị ảnh hưởng bởi môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế. Do vậy, chúng cần thiết phải được thường xuyên đánh giá, rà soát và chỉnh sửa cho phù hợp.
Giám sát lợi nhuận sau điều chỉnh rủi ro của các đơn vị kinh doanh. Mặc dù tách biệt hẳn với khối kinh doanh, song khối rủi ro lại chính là đơn vị phải đánh giá lợi nhuận sau điều chỉnh rủi ro của các đơn vị kinh doanh. Khối quản lý rủi ro phải
đảm bảo lợi nhuận sau điều chỉnh rủi ro phù hợp với kỳ vọng của ngân hàng, nói cách khác là của các cổ đông của ngân hàng.
Đảm bảo mức độ rủi ro tín dụng luôn ở trong giới hạn rủi ro cho phép của ngân hàng, Như đã đề cập ở trên, chiến lược rủi ro của ngân hàng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Dựa trên khẩu vị rủi ro, các giới hạn được đặt ra trong hoạt động tín dụng. Nhiệm vụ của khối rủi ro là luôn luôn đảm bảo mức độ rủi ro thực tế không vượt quá mức rủi ro mà ngân hàng sẵn sàng gánh chịu. Một khi mức độ rủi ro vượt quá giới hạn cho phép, có nghĩa là nhà đầu tư của ngân hàng hoặc là đòi hỏi mức lợi nhuận cao hơn hoặc là không chấp nhận đầu tư mạo hiểm. Tuy nhiên, nếu mức độ rủi ro quá thấp, đồng nghĩa với lợi nhuận thu được không đúng theo kỳ vọng của nhà đầu tư. Do vậy, mức độ rủi ro cho phép luôn là mục tiêu giám sát của khối quản trị rủi ro.
Đảm bảo các quy định, quy trình quản trị tín dụng được tuân thủ nghiêm ngặt trong quá trình cấp tín dụng. Một trong những công cụ của quản trị rủi ro đó
là những quy định về hạn mức và các bước thực hiện trong quá trình cấp tín
dụng. Một khi các chuẩn mực này được tuân thủ nghiêm ngặt, rủi ro của ngân hàng sẽ luôn nằm trong giới hạn đặt ra.
Đảm bảo toàn bộ các sản phẩm, dịch vụ mới được rà soát rủi ro tín dụng trước khi triển khai trên toàn hệ thống. Hoạt động ngân hàng tài chính là một trong những loại hình kinh doanh luôn tạo ra sự đổi mới trong các sản phẩm, dịch vụ. Tuy nhiên, mỗi khi ra đời một loại sản phẩm, dịch vụ tài chính nào đó, những rủi ro có thể xảy ra là điều luôn luôn phải được quan tâm. Hơn thế nữa, đánh giá rủi ro của sản phẩm, dịch vụ mới cũng góp phần định hướng cho việc định giá các dịch vụ, sản phẩm này một cách hợp lý. Vấn đề ở đây là nhiệm vụ giám sát rủi ro này phải được thực hiện bởi khối quản trị rủi ro trước khi triển khai sản phẩm, dịch vụ mới.
Đảm bảo luồng báo cáo rủi ro được thông suốt, minh bạch, phản ánh đầy đủ những rủi ro ngân hàng đang gánh chịu. Báo cáo rủi ro là một công cụ quản trị
rủi ro cơ bản. Một khi hệ thống báo cáo không đáp ứng được các yêu cầu về chất lượng thông tin, tính kịp thời, tính đầy đủ, quản trị rủi ro sẽ là một công việc hết sức khó khăn và hiệu quả thấp.
Chịu trách nhiệm đưa ra quyết định tín dụng trên cơ sở thẩm định rủi ro, đảm bảo tính độc lập, khách quan với bộ phận quan hệ khách hàng. Đây cũng là một nguyên tắc được khuyến nghị bởi ủy ban Basel II “quyết định tín dụng phải được đưa ra bởi ít nhất 2 người, và một người trong số đó nhất thiết phải là cán bộ rủi ro”.
3.2.2 Đào tạo cán bộ làm công tác quản trị rủi ro
Trong bất kỳ hoạt động nào của NHTM thì yếu tố con người vẫn đóng vai trò then chốt. Do trình độ chuyên môn nghiệp vụ và hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, hoặc do ý thức trách nhiệm không cao, hoặc do thiếu đạo đức nghề nghiệp đã vi phạm các qui trình nghiệp vụ, cơ chế, chính sách, pháp luật dẫn đến những
thất thoát tài sản của Ngân hàng. Bởi vậy, nếu đội ngũ cán bộ đáp ứng được
những yêu cầu hoạt động kinh doanh Ngân hàng chắc chắn sẽ giảm thiểu phần lớn những tổn thất rủi ro do chủ quan gây ra. Giải pháp này hướng tới những vấn đề cụ thể bao gồm:
Sử dụng những chuyên gia giỏi chuyên nghiên cứu về rủi ro và quản trị rủi ro làm hạt nhân trong việc tham mưu cho lãnh đạo Ngân hàng và trong việc phổ cập kiến thức và kinh nghiệm của cán bộ công nhân viên về rủi ro và quản trị rủi ro. Mỗi khi ban hành quy định mới hay bổ sung, sửa đổi các cơ chế, quy chế cần cập nhật về quản trị rủi ro, ban lãnh đạo ngân hàng cần thiết lắng nghe ý kiến của các chuyên gia coi trọng những đề xuất khách quan và khoa học. Tích cực tìm kiếm cơ hội đào tạo kết hợp với việc chủ động mở các lớp đào tạo ngắn hạn về chuyên môn nghiệp vụ và ý thức đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ công nhân viên theo mô hình và phương thức các lớp bồi dưỡng kiến thức về rủi ro trên đây để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trên tất cả các lĩnh vực hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng.
Bố trí sắp xếp có hiệu quả đội ngũ cán bộ nghiệp vụ theo nguyên tắc đúng người đúng việc, bố trí công tác phù hợp với khả năng, trình độ và sở trường của mỗi người sẽ tránh được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh.
Mỗi cán bộ cũng cần phải được đặt trong môi trường cạnh tranh, tạo thêm ưu đãi hay thưởng phạt và được quy định rõ ràng về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi tạo động lực thúc đẩy tinh thần trách nhiệm, tính năng động sáng tạo của mỗi cán bộ.
3.2.3 Nâng cao chất lượng công tác thẩm định và phân tích tín dụng
Mục tiêu của phân tích tín dụng là tìm kiếm và đánh giá những khả năng tiềm tàng có thể gây ra những rủi ro cho việc hoàn trả nợ vay. Trên cơ sở đó, ngân hàng có sự dự đoán những khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng và cần có những biện pháp để ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu thiệt hại khi rủi ro xảy ra.
Phần nội dung của báo cáo thẩm định tín dụng cần đề cập đến các vấn
đề:
Phương án sử dụng vốn vay và nguồn trả nợ của khách hàng.
Phân tích và đánh giá từng yếu tố gây tác động tới rủi ro tín dụng.
Các chỉ tiêu tạo ra lợi nhuận.
Khả năng khai thác và sử dụng tài sản.
Cơ cấu nguồn vốn trả nợ.
Khả năng thanh toán của khách hàng.
Từ đó, các cán bộ quản trị rủi ro thực hiện phân tích tín dụng qua việc thực hiện chấm điểm xếp hạng tín dụng khách hàng. Đây là một phương thức lượng hóa rủi ro của khách hàng thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm. Hệ thống chấm điểm được chia thành hai thành phần chính:
Chấm điểm phi tài chính: cho ra kết quả về dòng tiền, uy tín khách hàng, các yếu tố bên ngoài, các yếu tố tác động đến doanh nghiệp.
Chấm điểm tài chính: cho thấy quy mô, tình hình tài chính khách hàng.
Từ hoạt động thẩm định và phân tích tín dụng, cán bộ ngân hàng phải đưa ra được các báo cáo kết luận với các nội dung:
Đưa ra được nhân tố có thể gây ra rủi ro trong quan hệ tín dụng với khách
hàng
Khả năng kiểm soát rủi ro của ngân hàng
Khoản tín dụng đề nghị có phù hợp với quy định hiện hành.
Nêu rõ ý kiến về việc đồng ý/không đồng ý cấp khoản vay và các điều kiện phê duyệt cần được áp dụng.
3.2.4 Nâng cao chất lượng kiểm tra, giám sát tín dụng
Một cách rõ ràng, kiểm tra và giám sát tí nụng là một phần không thể thiếu trong việc đảm bảo chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. Do vậy, cần thiết phải tăng cường vai trò giám sát của bộ phận rủi ro đối với bộ phận kinh doanh, bộ phận trực tiếp khởi tạo khoản vay. Bộ phận quản trị rủi ro phải đảm bảo định kỳ đánh giá những nội dung sau:
Chất lượng và hiệu quả công tác của cán bộ quan hệ khách hàng trong khâu khởi tạo và giám sát khoản vay (theo định kỳ hàng ngày hoặc hàng tuần).
Chất lượng công việc của cán bộ hậu kiểm (cán bộ quản trị khoản vay) trong việc nhập dữ liệu, lưu trữ thông tin, hồ sơ.
Việc tuân thủ các quy tắc rủi ro và các hạn mức (hàng ngày).
Kiểm tra tính đầy đủ, trung thực của hệ thống thông tin quản trị tín dụng (hàng tuần).