tiến hành theo một trình tự và thủ tục nhất định gồm công bố quyết định kiểm tra, giám sát, thực hiện đối chiếu nội dung khai báo với sổ kế toán, báo cáo tài chính, các tài liệu có liên quan, tình trạng thực tế trong phạm vi và nội dung của quyết định kiểm tra, giám sát; công bố thời hạn kiểm tra, giám sát và kéo dài thời hạn kiểm tra theo quy định đối với các tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa vụ với NSNN huyện; lập biên bản kiểm tra theo đúng thời hạn quy định; xử lý kết quả kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền và đúng quy định của pháp luật.
Để bảo đảm hoàn thành dự toán thu NSNN huyện không thể không coi trọng công tác kiểm tra, giám sát. Kiểm tra, giám sát thu nộp các khoản thu NSNN huyện không chỉ bảo đảm động viên đầy đủ, kịp thời đúng pháp luật số thu NSNN huyện đã được dự toán mà còn bảo đảm yêu cầu tuân thủ các quy định pháp luật về thu NSNN; phát hiện những quy định trong pháp luật và quy trình quản lý thu NSNN huyện không còn phù hợp để kiến nghị các biện pháp bổ sung, sửa đổi.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thu ngân sách nhà nước
Tương tự như các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý thu ngân sách nhà nước tại trung ương, quản lý thu ngân sách nhà nước tại địa phương cũng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố ảnh hưởng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thu NSNN, sau đây là một số nhân tố chủ yếu:
1.3.1. Chính sách, pháp luật liên quan đến thu NSNN
Thu ngân sách có thể lấy về từ nhiều nguồn, dưới nhiều hình thức, nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của nhà nước, thể hiện tính cưỡng chế và mang tính không hoàn trả là chủ yếu. Đối tượng thu là mọi lĩnh vực, mọi thành phần trong nền kinh tế. Các luật do nhà nước quy định về nguồn thu và tổ chức quản lý thu là căn cứ cho quá trình động viên vào ngân sách. Các quy định về nguồn thu bao gồm các luật thuế, các quy định về phí, lệ phí, về bán tài nguyên, tài sản quốc gia, về các doanh nghiệp nhà nước...
Yêu cầu đối với các chính sách huy động nguồn thu ngân sách là phải đảm bảo tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính quốc gia vào tay nhà nước để trang trải
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp Phân Tích Và Xử Lý Thông Tin
- Nội Dung Quản Lý Thu Ngân Sách Nhà Nước
- Quản lý thu ngân sách nhà nước tại quận Ba Đình, thành phố Hà Nội - 5
- Khái Quát Tình Hình Thu Ngân Sách Nhà Nước Của Quận Ba Đình, Thành Phố Hà Nội Giai Đoạn 2017 – 2019
- Dự Toán Thu Nsnn Trên Địa Bàn Quận Ba Đình Giai Đoạn 2017-2019
- Tình Hình Thu Nsnn Trên Địa Bàn Quận Ba Đình Theo Từng Lĩnh Vực
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
các khoản chi phí cần thiết cho việc vận hành bộ máy cũng như thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Đồng thời đảm bảo khuyến khích, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo nguồn thu ngày càng lớn. Đặc biệt, coi trọng yêu cầu công bằng xã hội, điều tiết thu nhập giữa các thành phần trong nền kinh tế. Trước những yêu cầu đó, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thu ngân sách được xây dựng dựa trên những tiêu chí nhất định.
Thứ nhất, đó là nhu cầu chi tiêu của huyện. Tùy thuộc chức năng, nhiệm vụ mà huyện đảm nhận, quy mô của hệ thống bộ máy huyện, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, quan điểm phát triển của huyện... mà hình thành nên nhu cầu chi tiêu thường xuyên, chi cho đầu tư phát triển và chi cho các vấn đề xã hội của mỗi huyện.
Thứ hai, đó là khả năng tạo ra nguồn thu ngân sách của huyện. Khả năng này thể hiện qua nhiều tiêu chí, ví dụ như: Mức thu nhập GDP bình quân đầu người trên địa bàn huyện; khả năng khai thác và xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên của huyện; tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân để đầu tư của huyện...
Việc căn cứ trên nhu cầu chi tiêu và khả năng tạo nguồn thu của huyện là khắc phục tư tưởng thu đơn thuần, thu thoát ly thực trạng kinh tế tại địa phương. Căn cứ trên hai tiêu chí này, đòi hỏi việc xây dựng hệ thống pháp lý để huy động các nguồn tài chính vào NSNN huyện phải luôn luôn phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế, thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh trên thực tế tại huyện. Từ đó để ra các chính sách, chế độ, biện pháp chỉ đạo thu thích hợp. Không vì yêu cầu đảm bảo nhu cầu trang trải các khoản chi phí của huyện mà gia tăng các khoản thu một cách phi thực tế, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh, làm hạn chế nguồn thu NSNN huyện trong tương lai.
Thứ ba, đó là căn cứ trên quan điểm của nhà nước về công bằng xã hội. Thu NSNN huyện xét ở một góc độ nào đó là sự phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư thông qua bộ máy quyền lực của huyện. Sự phân phối đó là cần thiết cả về khía cạnh kinh tế và khía cạnh xã hội. Tuy vậy, sự phân phối đó cũng luôn chứa
đựng trong nó những mâu thuẫn về mặt lợi ích. Một sự động viên thiếu công bằng sẽ khoét thêm những mâu thuẫn đó. Khi mức độ mâu thuẫn đạt đến cực điểm sẽ bùng nổ những cuộc đấu tranh xã hội làm phương hại đến tính ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của huyện. Chính vì lẽ đó, huy động nguồn tài chính vào ngân sách phải luôn luôn coi trọng khía cạnh công bằng xã hội. Nó đòi hỏi việc tổ chức động viên phải bám sát khả năng đóng góp của người dân theo nguyên tắc công bằng ngang và dọc. Đối với mỗi địa phương, quan điểm về sự công bằng xã hội có những khác biệt nhất định, cho nên tùy thuộc những quan điểm riêng đó mà cơ chế, chính sách thu cũng cónhững nét đặc trưng riêng.
Qua những phân tích trên đây, có thể khẳng định kết quả thu NSNN huyện phụ thuộc rất lớn vào hệ thống pháp lý trong lĩnh vực thu. Đây là nhân tố vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Mang tính chủ quan là ở chỗ, UBND huyện chính là chủ thể ra các quyết định này. Còn khách quan là ở chỗ, hệ thống pháp luật được xây dựng trong mối quan hệ chặt chẽ với nhân tố thực trạng nền kinh tế đã phân tích ở trên, nhằm xác lập một hệ thống chính sách thu đồng bộ, phù hợp đảm bảo lợi ích lâu dài.
Tuy nhiên, trong ngắn hạn, do được nghiên cứu kỹ và xây dựng có hệ thống, có tính chất lâu dài, nên sự tác động của nhân tố này tới thực trạng thu cũng như những vần đề còn tồn tại trong công tác thu ngân sách là không nhiều.
1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội địa phương
Toàn bộ nền kinh tế quốc dân chính là nguồn thu của NSNN. Thu của NSNN được lấy từ nhiều nguồn khác nhau, cả trong và ngoài nước, từ mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau, cả sản xuất, lưu thông và phân phối. Kết quả của các hoạt động kinh tế trong nước được đánh giá bằng các chỉ tiêu chủ yếu như: mức tăng trưởng GDP, tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế... Đó là các nhân tố khách quan quyết định mức động viên của NSNN. Sự vận động của các phạm trù giá trị khác vừa có tác động đến sự tăng giảm mức động viên của NSNN, vừa đặt ra yêu cầu sử dụng hợp
lý các công cụ thu của NSNN để điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội cho phù hợp với sự biến động của các phạm trù giá trị.
Như vậy, trong tổng thu của NSNN phải coi trọng nguồn thu trong nước là chủ yếu, mà quan trọng hơn cả là nguồn của cải mới được sáng tạo ra trong các ngành sản xuất, dịch vụ.
Thu nhập của NSNN quận/huyện có thể được huy động từ nền kinh tế bằng nhiều hình thức khác nhau, có bắt buộc, có tự nguyện, có hoàn trả và không hoàn trả, ngang giá và không ngang giá... nhưng nét đặc trưng là luôn gắn liền với quyền lực chính trị của các cơ quan nhà nước huyện, thể hiện tính cưỡng chế bằng hệ thống luật lệ do nhà nước quy định và mang tính không hoàn trả là chủ yếu. Mặc dù vậy, do có sự tác động ngược trở lại nền kinh tế của việc thu NSNN huyện, mà sự cưỡng chế thu này phải đặt trong sự phù hợp với tăng trưởng phát triển, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Ý nghĩa thực tiễn của việc nhận thức đầy đủ đặc điểm này là ở chỗ, việc sử dụng các hình thức và phương pháp động viên của NSNN huyện đòi hỏi phải xem xét đến tính chất đặc điểm của các hoạt động kinh tế - xã hội tại huyện và yêu cầu phát huy vai trò đòn bẩy của các công cụ tài chính trong phân phối lại các nguồn tài chính phù hợp với tình hình, đặc điểm của từng thời kỳ phát triển của huyện.
Do đó, để tăng thu cho NSNN huyện, về lâu dài, con đường chủ yếu là phải nâng cao trình độ phát triển, tìm cách mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất của nền kinh tế.
Đối với công tác thu NSNN của huyện, nhân tố quyết định tới nguồn thu NSNN trên địa bàn cơ bản vẫn là thực trạng phát triển của kinh tế trong phạm vi huyện. Tuy nhiên, khác với NSNN nói chung, nguồn thu trên địa bàn huyện (quận) còn chịu sự tác động của phạm vi địa giới, những chính sách, quy định riêng và nhiều đặc điểm khác. Chẳng hạn, tuy sự hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp không nằm trên địa bàn, nhưng trụ sở doanh nghiệp nằm trên phạm vi lãnh thổ tỉnh cũng mang lại nguồn thu theo quy định, và do đó, nguồn thu này
không gắn với sự tăng trưởng kinh tế trên địa bàn. Vì lý do trên, khi xem xét sự tác động của nhân tố tăng trưởng nền kinh tế trên địa bàn tới nguồn thu NSNN phải loại bỏ các tác nhân đó.
Có thể khẳng định, nhân tố tăng trưởng kinh tế vừa là nguồn để thu NSNN lại vừa là đối tượng tác động của các chính sách thu. Nhận thức đầy đủ sự ảnh hưởng của nhân tố này, trong công tác thu, phải tránh tình trạng thu theo chủ quan, thu tách rời thực trạng tăng trưởng của nền kinh tế, phải đặt lợi ích kinh tế” lên hàng đầu, thực hiện thu phải tạo được điều kiện thuận lợi cho phát triểnkinh tế.
1.3.3. Ý thức của đơn vị thực hiện nghĩa vụ với NSNN
Sự hiểu biết pháp luật thu NSNN huyện, tính tự giác của tổ chức và cá nhân thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN có vai trò rất quan trọng trong thu NSNN huyện. Nếu các cá nhân, tổ chức có sự hiểu biết sâu sắc pháp luật thu NSNN, hiểu được lợi ích của việc nộp NSNN cho cơ quan thu NSNN huyện, từ đó tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN thì hoạt động thu NSNN huyện được thực hiện dễ dàng, không bị thất thoát. Từ đó, tạo điều kiện phát triển đất nước tốt hơn.
Ngược lại, nếu các cá nhân tổ chức không hiểu biết về pháp luật thu NSNN, hoặc cố ý không nộp NSNN thì việc thu NSNN huyện sẽ khó thực hiện, chi phí cho việc kiểm soát thu NSNN huyện sẽ lớn hơn.
1.3.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý thu NSNN
Đối với công nghệ, phương tiện thông tin phục vụ cho việc quản lý thu ngân sách nhà nước, giám sát, thanh tra, kiểm tra là yếu tố tác động không nhỏ tới kết quả thu NSNN huyện. Cơ chế, chính sách thu không, hoặc ít có những thay đổi, trong khi tình hình kinh tế - xã hội vận động và biến đổi hàng ngày. Trong hoàn cảnh đó, kỹ thuật công nghệ đóng vai trò quan trọng giúp việc quản lý thu ngân sách nhà nước huyện theo sát thực tế, thu đúng, thu đủ. Trong thời đại kỹ thuật số ngày nay, các quan hệ kinh tế diễn ra ngày càng phức tạp, trình độ gian lận thuế, các thủ thuật trốn thuế cũng ngày càng tinh vi, yếu tố thông tin, kỹ thuật rất cần được chú trọng. Hiệu quả của công tác thu ngân sách nhà nước, kết quả của việc chống trốn và gian lận thuế bị tác động nhiều ở yếu tố này.
Việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác quản lý thu NSNN là một yêu cầu tất yếu cùng với tiến trình hoàn thiện công tác quản lý thu NSNN nhằm giảm khối lượng công việc của cơ quan quản lý thu NSNN, đồng thời giảm tình trạng gian lận, trốn nghĩa vụ với NSNN của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh…
1.3.5. Năng lực đội ngũ cán bộ quản lý thu NSNN
Hoạt động quản lý, hoạt động kinh tế nói chung và công tác thu ngân sách nói riêng nhân tố con người có ý nghĩa quyết định. Nhân tố con người được xem xét trên hai khía cạnh: năng lực và đạo đức. Dù có cơ chế chính sách tốt, có cách thức tổ chức phù hợp, nhưng nếu cán bộ không hội đủ chuyên môn, công tác thu cũng không thể hoàn thành tốt được. Những hành vi trốn thuế, gian lận thuế là những hành động ở thế chủ động, trong khi công việc phòng chống lại luôn ở thế bị động. Do vậy, để thực hiện tốt công việc của mình, các cán bộ chuyên trách rất cần có năng lực cao. Tuy nhiên, trên thực tế, gây tác hại nhiều hơn tới kết quả thu ngân sách lại không phải chủ yếu do năng lực cán bộ yếu. Vấn đề bức xúc từ xưa đến nay vẫn là đạo đức cán bộ. Việc quản lý một khối lượng lớn nguồn tài chính quốc gia đã tạo cơ hội cho những cán bộ tha hóa, biến chất vi phạm pháp luật. Lợi ích cá nhân luôn là động cơ thúc đẩy các hành vi vi phạm pháp luật, để các cán bộ thu ngân sách bắt tay với đối tượng thu, gây phương hại đến lợi ích quốc gia. Bởi vậy, nhân tố con người có tác động lớn tới kết quảthu ngân sách tại huyện.
1.4. Kinh nghiệm quản lý thu NSNN tại một số địa phương và bài học đối với quận Ba Đình
1.4.1. Kinh nghiệm quản lý thu NSNN tại một số địa phương
1.4.1.1. Kinh nghiệm của quận Đống Đa
Là một quận có điều kiện kinh tế - xã hội tương tự quận Ba Đình, tuy nhiên công tác quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế của quận Đống Đa được đánh giá cao và thường xuyên được các quận khác trong thành phố Hà Nội và các tỉnh khác tham khảo học hỏi.
- Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ được tiến hành rộng rãi dưới sự chỉ đạo hướng dẫn của UBND quận cùng sự phối hợp nhịp nhàng với các
cơ quan truyền thống địa phương tuyên truyền đến từng đối tượng nộp thuế. Chi cục thuế thường xuyên thông qua việc đăng đầy đủ các văn bản về thuế trên các sách, báo, phát thanh, truy ển hình và các tờ rơi, tóm tắt văn bản đầy đủ, gọn những việc người nộp thuế phải làm. Ngoài ra, Chi cục thuế còn tổ chức bộ phận tư vấn, giải đáp, hướng dẫn đầy đủ những nội dung hiện hành về thuế cho người nộp thuế nhằm tạo điều kiện cho công tác quản lý thu thuế có hiệu quả cao.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ quản lý thu thuế là một vấn đề được đặc biệt quan tâm. Phương thức đào tạo bồi dưỡng được tiến hành theo bốn cấp: cơ bản, nâng cao, chuyên gia, chuyên đề. Công tác quản lý thu thuế có những biện pháp thủ thuật riêng và những bí quyết để chống lại các hoạt động trốn, lậu thuế có hiệu quả. Vì vậy, sau khi tuyển chọn qua các kỳ thi, Chi cục thuế tổ chức bồi dưỡng thêm kiến thức về thuế theo chức danh, sau đó mới bố trí vào những vị trí công tác cụ thể. Các kỳ thi đánh giá chất lượng quyết định nâng ngạch, bậc cũng được tổ chức nghỉ êm túc, chặt chẽ, khách quan.
Đối với cán bộ quản lý thu thuế có nhiều kinh nghiệm, kiến thức về thuế vẫn có sự tiếp tục bồi dưỡng qua các kỳ học chuyên đề, hoặc gửi vào các trường để bồi dưỡng thêm về lý luận. Xây dựng cơ chế đào tạo trong và ngoài nước nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ thuế để có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao
1.4.1.2. Kinh nghiệm của huyện quận Lê Chân, TP.Hải Phòng
Quận Lê Chân là trung tâm kinh tế - chính trị - hành chính của TP. Hải Phòng, đây cũng là một trong những trung tâm du lịch lớn của cả nước với dân số khá đông, gồm có 12 phường và 3 xã. Cơ cấu kinh tế được xác định là: Dịch vụ du lịch - công nghiệp - nông lâm nghiệp
Công tác quản lý thu NSNN từ thuế được thực hiện trên cơ sở đề án uỷ nhiệm thu được UBND thành phố phê duyệt, Chi cục thuế thực hiện quản lý thu thuế công thương nghiệp ngoài quốc doanh đối với các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh có doanh thu lớn, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thu cấp quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, cấp xã, phường tổ chức thu thuế sử dụng đất phi nông
nghiệp, thuế môn bài từ bậc 4 đến bậc 6, thuế giá trị gia tăng, thu nhập cá nhân đối với hộ kinh doanh nhỏ, người trực tiếp thực hiện ủy nhiệm thu và xã, phường được trích tỷ lệ hoa hồng ủy nhiệm thu từ kinh phí của Chi cục thuế.
Việc phân cấp nguồn thu cũng như tỷ lệ điều tiết các khoản thu giữa các cấp ngân sách được thực hiện ổn định trong 4 năm đã từng bước nâng cao được tính chủ động và trách nhiệm của chính quyền địa phương trong điều hành ngân sách, tăng nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
1.4.2. Bài học đối với quận Ba Đình
Qua nghiên cứu công tác quản lý thu ngân sách ở các địa phương trên có thể rút ra một số kinh nghiệm sau:
- Tăng cường sự phối hợp giữa UBND, các cơ quan chức năng với cơ quan thuế trong công tác tuyên truyền và đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ thuế.
- Công tác tuyên truyền cần phải có sự phối hợp hơn nữa giữa UBND với các cơ quan chức năng, cơ quan thông tin đại chúng để phổ biến tuyên truyền công tác thuế đến từng địa bàn, từng người nộp thuế
- Cán bộ thuế phải được bồi dưỡng, đào tạo thường xuyên, cập nhật chính sách thuế mới đầy đủ để thực hiện công tác thuế tốt nhất.
- Cải tiến quá trình thực hiện công tác kế khai, đăng ký thuế tiến tới vận động Người nộp thuế áp dụng kê khai 100% qua mạng internet.
- Tất cường đầu tư cơ sở vật chất và phương tiện làm việc cho cán bộ trong cơ quan thuế nhằm đạt hiệu quả công việc cao nhất.
- Tăng cường thực hiện công tác ủy nhiệm thu, điều này vừa tăng thu được cho ngân sách về thuế, thống thất thu sót hộ, đồng thời tăng cường trách nhiệm của UBND các phường trong công tác quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế, bổ sung cán bộ cho các bộ phận khác trong cơ quan thuế.