cấp độ từng chi nhánh riêng lẻ. Do đó, thông tin khai thác ở cấp toàn hàng phục vụ cho quản lý, điều hành, kiểm soát rủi ro chủ yếu được tổng hợp thủ công, dẫn đến hạn chế lớn về khối lượng và chất lượng xử lý.
Sau khi triển khai hệ thống ngân hàng lõi, mặc dù thông tin về các giao dịch được quản lý trên một cơ sở dữ liệu tập trung và thống nhất trên toàn bộ các chi nhánh. Song, những bất cập về dữ liệu lịch sử thì không thể khắc phục, cộng với những hạn chế của bản thân hệ thống ngân hàng lõi (chỉ chú trọng phục vụ giao dịch mà chưa chú trọng phục vụ công tác báo cáo, quản lý rủi ro), làm cho hệ thống thông tin của NHCT vẫn thể hiện những yếu kém sau:
Về thời gian: Những thông tin phục vụ quản lý rủi ro trước hết được xây dựng trên từng khách hàng, từng khoản vay. Song, việc nhập thông tin của khách hàng, khoản vay vẫn phải thực hiện thủ công, và do đó dẫn đến chậm trễ trong phân tích thông tin.
Về tính chính xác: Hệ thống ngân hàng lõi được thiết kế trên nền tảng các chính sách tín dụng chung, song vẫn chịu sự chi phối của con người. Trong khi đó, công tác kiểm tra, giám sát, đối chiếu hồ sơ giấy và hồ sơ máy chưa được chú trọng. Thực tế là đến tận tháng 9/2009, ngân hàng Công thương mới thành lập bộ phận hậu kiểm với một trong những chức năng là nhập thông tin khách hàng vào hệ thống, nhằm giảm bớt những sai sót trong việc nhập thông tin. Tuy nhiên, do thông tin khách hàng vẫn được nhập thủ công nên độ tin cậy chưa đạt đến yêu cầu cần thiết.
Về tính đầy đủ: Hệ thống ngân hàng lõi như đã đề cập, chỉ phục vụ xử lý giao dịch của khách hàng, nên những thông tin về hợp đồng tín dụng, giấy tờ liên quan đến khoản vay chưa được lưu trữ tự động. Bên cạnh đó, các thông tin về khoản vay bị từ chối không được lưu trữ khiến cho mục tiêu lượng hóa rủi ro dựa trên mô hình thông kê chưa thể thực hiện được.
2.3.3.2 Nguyên nhân khách quan
A/ Môi trường kinh doanh chưa ổn định
Nguyên nhân từ phía môi trường, chính sách kinh tế và công tác giám sát từ xa của NHNN: các định hướng phát triển của Nhà nước thường xuyên
thay đổi, điều chỉnh cơ chế chính sách làm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Cơ chế chính sách của Chính phủ, của NHNN về cho vay, bảo đảm tiền vay, xử lý nợ xấu ... còn nhiều vấn đề chưa phù hợp với thực tế, đổi mới và chỉnh sửa bổ sung còn chậm. Quy chế cho vay của NHNN và hướng dẫn của Ngân hàng có điểm quy định thiếu cụ thể, nên khi triển khai thực hiện còn vướng mắc, còn nhiều cách hiểu khác nhau dễ dẫn đến rủi ro. Các văn bản pháp luật về tài sản thế chấp còn nhiều bất cập, nhất là trong việc xác định quyền sở hữu các tài sản dùng làm thế chấp.
Quy trình phát mại tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất còn phức tạp, đất thế chấp nhưng ngân hàng không tự định đoạt được mà phải xin ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn hoặc phải khởi kiện ra tòa. Pháp luật chưa ban hành đầy đủ các văn bản pháp lý về thẩm quyền của người cho vay hoặc cơ quan chức năng trong việc phát mại tài sản thế chấp, cầm cố... chưa có cơ chế cưỡng bắt buộc người vay vốn có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho ngân hàng xử lý, khi không có khả năng trả nợ . Điều này dẫn đến tình trạng khách hàng trây ỳ, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà ngân hàng chưa thu hồi được.
Có thể bạn quan tâm!
- Ứng Phó Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Quản Lý Khoản Vay
- Những Hạn Chế Trong Công Tác Quản Lý Rủi Ro Tín Dụng Của Ngân Hàng
- Xuất Hiện Tình Trạng Tập Trung Tín Dụng Vào Một Số Ngành Hàng, Nhóm Khách Hàng
- Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Giám Sát, Kiểm Soát Tín Dụng
- Nâng Cao Hiệu Quả Hoạt Động Của Cơ Chế Phân Cấp Thẩm Quyền Phê Duyệt Tín Dụng
- Khái Quát Lưu Đồ Quy Trình Tín Dụng Trong Mô Hình
Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.
Luật doanh nghiệp nhà nước chỉ mới quy định doanh nghiệp được dùng tài sản nhà nước để thế chấp nhưng việc xử lý tài sản để thu hồi nợ khi doanh nghiệp không trả được nợ vay thì không quy định.
Pháp lệnh thống kê đến nay đã bộc lộ nhiều thiếu sót, do chưa thực sự xử lý nghiêm minh các doanh nghiệp vi phạm pháp lệnh. Thủ tục khởi kiện của ngân hàng còn rườm rà. NHNN chưa khắc phục được công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ (tức là duy trì hoạt động phân tích và giám sát liên tục qua mạng máy tính đối với tất cả các TCTD trong hệ thống ngân hàng). Mặt khác, cũng giống các NHTM khác ngân hàng chưa quen trao đổi thông tin về tình hình khách hàng cho các ngân hàng bạn bởi lý do cạnh tranh nên đến nay hệ thống thông tin tại trung tâm tín dụng NHNN (CIC) chưa đáp ứng được nhu cầu của ngân hàng.
B/ Nguyên nhân từ phía khách hàng
Đối với khách hàng là doanh nghiệp, một thực trạng chung hiện nay là các doanh nghiệp không tuân thủ nghiêm ngặt chế độ báo cáo tài chính, bản thân họ không thấy tầm quan trọng của báo cáo tài chính nền việc lập ra các báo cáo tài chính gửi ngân hàng không bài bản. Các báo cáo tài chính gửi ngân hàng có chất lượng kém: thể hiện ở hai mặt thiếu thông tin và sai lệch thông tin. Thông tin thiếu sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc phân tích, đánh giá thực trạng của khác hàng, cán bộ ngân hàng phải đến tận doanh nghiệp để xác minh lại thông tin, gây phiền toái mất thời gian. Ngoài ra, rất ít các doanh nghiệp hiện nay thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Do vây, ngân hàng khó có thể phát hiện ra sai sót trong việc chấp hành chế độ kế toán của những doanh nghiệp này. Hệ quả là việc đưa ra phán quyết tín dụng đôi khi không chuẩn xác.
Nguyên nhân từ phía tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo từ các khoản vay của ngân hàng thường là bất động sản hay là các phương tiện vận tải. Nguy cơ về biến động giá cả trên thị trường, khó phát mại tài sản, tài sản giảm giá trị hay thay đổi hiện trạng… cũng gây rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
C/ Chính sách của Ngân hàng nhà nước
Mặc dù đã có những động thái để tăng cường hoạt động quản lý rủi ro của các NHTM, song đến nay vẫn chưa có một hướng dẫn, quy định cụ thể nào về vấn đề này. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập dự phòng ra đời từ năm 2005 chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn các NHTM thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng. Trong đó, theo quy định tại điều 7, các NHTM chưa bắt buộc phải xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng cho đến tháng 05/2008. Tuy nhiên, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đã xây dựng được cho mình hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Song, như một tư duy phổ biến, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các ngân hàng xây dựng trong thời gian vừa qua chủ yếu là để phục vụ công tác phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Trong khi đó, những chức năng cơ bản khác
của hệ thống này như hỗ trợ quyết định tín dụng, định giá khoản vay, xây dựng hạn mức chưa được quan tâm khai thác triệt để. Đó là chưa kể đến hiệp ước Basel II ra đời từ năm 2003, nhưng những nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng của nó cũng chưa được ngân hàng nhà nước đề cập trong các văn bản quy định của họ. Các NHTM VN chưa có lộ trình cho việc phát triển hệ thống quản lý rủi ro theo Basel II. Nguyên nhân của việc chậm trễ này một phần là do hệ thống ngân hàng Việt Nam còn đang phát triển ở mức thấp so với thế giới. Do đó, việc áp dụng ngay tức khắc những chuẩn mực này có thể là không khả thi. Tuy nhiên, NHNN cũng cần đưa ra những hướng dẫn, làm bước chuẩn bị cho các NHTM trong việc từng bước tiến tới chuẩn mực quốc tế về quản lý rủi ro.
Với thực trạng quản lý rủi ro tín dụng còn thiên về nhất thời, ngắn hạn mà thiếu tính bền vững, lâu dài, thiên về xử lý hậu quả mà tính phòng ngừa chưa cao, thiên về các yếu tố định tính mà chưa có khả năng lượng hóa cụ thể rủi ro như hiện tại, có thể thấy, để hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng nói riêng và quản lý rủi ro nói chung, NHCT sẽ phải hoàn thành những bước đi cải tổ mạnh mẽ hơn nữa để xây dựng và cơ cấu lại toàn bộ khuôn khổ và hạ tầng quản lý rủi ro tín dụng hiện thời.
Tóm lược chương 2
Trong chương 2, tác giả đã tập trung phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh tín dụng, cũng như công tác quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng công thương trong thời gian qua. Tác giả đã tập trung phân tích mô hình quản lý rủi ro, nội dung quản lý rủi ro bao gồm nhận biết, đo lường, ứng phó và kiểm soát rủi ro. Tác giả đã phân tích những những kết quả đạt được như xây dựng được khuôn khổ chính sách tín dụng, tổ chức bộ máy quản lý rủi ro và xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
Tác giả cũng chỉ ra được những hạn chế trong công tác quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng như chiến lược quản lý rủi ro, mô hình quản lý rủi ro, quy trình cấp tín dụng, hệ thống đo lường rủi ro, tình trạng tập trung tín dụng, kiểm soát rủi ro.
Những hạn chế này bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan như: Chưa có định hướng, chiến lược cụ thể cho quản lý rủi ro của ngân hàng, Chưa chú trọng phát triển các thước đo lượng hoá rủi ro và quy trình theo dõi tín dụng, nhân sự của bộ phận quản lý rủi ro, giao mức ủy quyền phán quyết lớn, hệ thống thông tin cảnh báo rủi ro.
Nguyên nhân khách quan như môi trường kinh doanh, từ phía khách hàng và chính sách của Ngân hàng nhà nước.
Từ những hạn chế và các nguyên nhân được phân tích trên, sẽ là cơ sở để tác giả đề xuất các định hướng, giải pháp, kiến nghị đối với công tác quản lý rủi ro tín dụng ở chương 3.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
3.1. ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NH TMCPCT VN
3.1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế tác động tới hoạt động tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng của NH TMCPCT VN
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần kinh của cả nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng quốc gia hoạt động thông suốt, lành mạnh và hiệu quả là tiền đề để các nguồn lực tài chính luân chuyển, phân bổ và sử dụng hiệu quả, kích thích tăng trưởng kinh tế một cách bền vững. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường thì rủi ro kinh doanh là không thể tránh khỏi, mà đặc biệt là rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng có phản ứng dây chuyền, lây lan và ngày càng có biểu hiện phức tạp. Sự sụp đổ của ngành ngân hàng có ảnh hưởng tiêu cực tới toàn bộ đời sống – kinh tế - chính trị - xã hội của một nước và có thể lan rộng sang quy mô quốc tế.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua là minh chứng rõ ràng nhất cho sức ảnh hưởng của hoạt động ngành ngân hàng tới toàn bộ đời sống – kinh tế - chính trị - xã hội trên quy mô toàn cầu. Sự sụp đổ của một loạt các ngân hàng lớn có thâm niên hàng trăm năm tại Mỹ đã làm rung chuyển hệ thống kinh tế không chỉ riêng nước Mỹ, mà nó đã ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế thế giới. Hậu quả của nó là suy thoái kinh tế ở mức trầm trọng, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và kéo dài, kéo theo đó là một loạt các tệ nạn xã hội đi kèm.
Đối với Hệ thống ngân hàng Việt Nam, kể từ khi chuyển đổi qua cơ chế thị trường, đã từng bước lớn mạnh không ngừng và thu được những thành tựu quan trọng, nhưng cũng trong quá trình đổi mới, hoạt động kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam đã vấp phải không ít các khó khăn. Hoạt động kinh doanh trở nên phức tạp hơn và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng lớn hơn, cùng với nó, mức độ rủi ro cũng tăng lên. Vậy làm thế nào để quản lý rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng trong môi trường kinh doanh mới và thị trường có nhiều biến động như hiện nay luôn là một bài toán khó đặt ra đối với mọi ngân hàng.
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, mục tiêu lợi nhuận luôn được đặt lên hàng đầu, song song với nó là mức độ rủi ro phải chấp nhận cũng tăng theo. Hoạt động tín dụng là quan trọng nhất trong ngân hàng thương mại bao gồm hai mặt: sinh lời và rủi ro. Thực tế đã cho thấy, ảnh hưởng của rủi ro tín dụng tới nền kinh tế, tới bản thân ngân hàng là rất lớn. Nó có thể khiến một ngân hàng phá sản, khiến nền kinh tế lâm vào khủng hoảng. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi nhưng làm thế nào quản lý được nó, hạn chế được nó luôn là một câu hỏi lớn, một vấn đề được tất cả các nhà quản lý của ngân hàng quan tâm.
3.1.2 Định hướng công tác quản lý rủi ro tín dụng của NH TMCPCT VN
Như đã phân tích, cấp tín dụng là hoạt động kinh doanh truyền thống của NH TMCPCT VN. Là hoạt động mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng, những rủi ro từ hoạt động này vì vậy cũng luôn đe doạ ảnh hưởng lớn tới chất lượng tài sản. Để đảm bảo tính bền vững và ổn định, quản lý rủi ro tín dụng luôn được coi là nhiệm vụ hàng đầu của ngân hàng. Trong xu thế cạnh tranh ngày càng căng thẳng, đi đôi với việc cải tiến, nâng cao chất lượng nghiệp vụ nhằm đáp ứng yêu cầu kinh doanh và phù hợp với chuẩn mực quốc tế, các ngân hàng đang nỗ lực cải thiện bộ khung quản lý rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng.
Không nằm ngoài xu thế đó, NH TMCPCT VN không ngừng nghiên cứu các biện pháp nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Những kết quả đạt được trong những năm vừa qua đã cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, một thực tế là chất lượng tín dụng vẫn đang ở mức thấp so với thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức cao, tập trung tín dụng vẫn tồn tại ở một số ngành hàng, khách hàng. Nguyên nhân cơ bản nhất của thực trạng này là hạn chế trong công tác quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng.
Trong thời gian tới, trong tiến trình từng bước nâng cao chất lượng tín dụng, cải thiện hệ thống quản lý rủi ro tín dụng, NH TMCPCT VN hướng tới
mục tiêu phát triển an toàn, hiệu quả, trở thành một trong những ngân hàng Việt Nam đầu có thể theo kịp các thực hành tốt nhất và chuẩn mực quốc tế trong quản lý rủi ro tín dụng. Cụ thể:
3.1.2.1 Hoàn thiện khung quản lý rủi ro tín dụng
Một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng tốt phải được đặt trong môi trường rủi ro thích hợp. Chiến lược rủi ro trong đó xác định rõ mức độ chấp nhận rủi ro chung, và mức độ chấp nhận rủi ro tín dụng nói riêng là kim chỉ nam cho sự vận hành của hệ thống quản lý rủi ro tín dụng. Hơn thế nữa, khung quản lý rủi ro tín dụng với chiến lược phát triển tín dụng chung, những chính sách tín dụng cơ bản, quan trọng chính là một phần không thể thiếu trong hệ thống quản lý rủi ro tín dụng. Chiến lược rủi ro của ngân hàng phải được xây dựng dựa trên những đánh giá toàn diện, kỹ lưỡng tình hình kinh doanh của ngân hàng, lợi nhuận kỳ vọng của các cổ đông và tình hình kinh tế trong nước. Hội đồng quản trị là cơ quan chịu trách nhiệm cuối cùng trong việc phê duyệt chiến lược rủi ro của ngân hàng.
1. Khung QLRR
- Nhận thức và văn hoá QLRR
- Chiến lược QLRR
Khung QLRR
2. Cơ sở hạ tầng
- Nhân sự
- Chính sách
- Công nghệ
- Phương pháp luận
- Quy trình
- Triết lý QLRR
- Mức độ chấp nhận rủi ro
- Báo cáo
- Cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ
Cơ sở hạ tầng
Các bước quản lý rủi ro
3. Các bước quản lý rủi ro
- Nhận diện rủi ro
- Đánh giá rủi ro
- Quản lý rủi ro
- Giám sát, theo dõi
Sơ đồ 3.1 Các cấu phần quản lý rủi ro chủ yếu
Nguồn: Theo Basel II
3.1.2.2 Xây dựng quy trình cấp tín dụng hợp lý
Để có được quy trình cấp tín dụng hợp lý, ngân hàng cần thiết phải thiết lập những tiêu chí cấp tín dụng, cơ chế phân cấp thẩm quyền phù hợp, phản ánh