Nội Dung Hệ Thống Tkkt Áp Dụng Trong Doanh Nghiệp Sản Xuất - Kinh Doanh


tổ chức có liên quan thực hiện chức năng thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với các doanh nghiệp, tiết kiệm chi phí khi doanh nghiệp triển khai thực hiện, hướng dẫn và đạo tạo áp dụng hệ thống TKKT doanh nghiệp.

Nội dung, nguyên tắc, phương pháp ghi chép các số liệu kế toán trên hệ thống TKKT trong doanh nghiệp sẽ được áp dụng thống nhất trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để có thể so sánh, phân tích, đánh giá xu hướng vận động và phát triển của doanh nghiệp cũng như đánh giá được mối tương quan giữa các doanh nghiệp, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổng hợp tài liệu theo ngành, theo lĩnh vực hoạt động, phục vụ cho công tác quản lý, điều hành trong phạm vi toàn ngành, toàn lĩnh vực, toàn xã hội. Có như vậy, hệ thống TKKT doanh nghiệp mới đảm bảo cung cấp các thông tin kinh tế tài chính có khả năng so sánh giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực kinh doanh.

(2) Bảo đảm tính “mở”

Hệ thống TKKT xây dựng phải có tính mở và thích ứng đối với các nghiệp vụ, các quá trình kinh tế sẽ phát sinh trong tương lai, đảm bảo được tuân thủ cao khi ứng dụng vừa có tính khả thi trong thực tiễn nhằm đáp ứng được nhu cầu cung cấp các thông tin kinh tế tài chính đầy đủ, trung thực, kịp thời phục vụ đắc lực cho việc quản lý, điều hành hoạt động SXKD của bản thân doanh nghiệp cũng như cho tất cả các đối tượng có nhu cầu sử dụng thông tin ở bên ngoài doanh nghiệp.

Yêu cầu này đòi hỏi hệ thống TKKT doanh nghiệp phải thể hiện được tính khái quát và tương thích cao để có thể phù hợp với tất cả các doanh nghiệp SXKD. Các nội dung cần quy định thống nhất phải được xác định rõ như thống nhất về loại TK, nhóm TK và thống nhất từ tên gọi, mã hiệu, nguyên tắc, kết cấu, nội dung phản ánh và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế chủ yếu đối với các TK trong từng loại và nhóm. Trên cơ sở hệ thống TKKT thống nhất, các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế hoặc từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh đặc thù phải chủ động, linh hoạt nghiên cứu tùy theo đặc điểm SXKD và yêu cầu quản lý để xây dựng TKKT các cấp trong từng loại TK, từng nhóm TK và vận dụng cho thích hợp để cung cấp thông tin tài chính tại doanh nghiệp một cách tốt nhất.


Yêu cầu "mở" cũng đòi hỏi hệ thống TKKT thống nhất áp dụng cho doanh nghiệp không nên quy định cứng TK các cấp vì sẽ không phù hợp với mọi quy mô hoạt động, mọi lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp. Mặc dù được chủ động, linh hoạt nhưng khi cụ thể hóa hệ thống TKKT thống nhất cho đơn vị mình thì yêu cầu doanh nghiệp phải tuân thủ các khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán; các chính sách kinh tế, tài chính, thuế có liên quan theo quy định hiện hành và khi có bổ sung, sửa đổi.

Ngoài ra, hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD phải phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và được quốc tế thừa nhận. Việc xây dựng hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD phải tính đến vai trò của Nhà nước; đảm bảo được sự quản lý của Nhà nước về kế toán; phải tính đến ảnh hưởng trên tất cả các mặt: nhận thức, con người, thủ tục hành chính, cách thức quản lý và đặc biệt là phải phù hợp với trình độ quản lý, công nghệ thông tin và phải có tính khả thi trong thực tiễn.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 228 trang tài liệu này.

2.2.3.3. Nội dung hệ thống TKKT áp dụng trong doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh

Để đáp ứng được các nguyên tắc và yêu cầu như đã nêu trên, hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD phải bao gồm các nội dung cơ bản như sau:

Nghiên cứu hệ thống tài khoản kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ở Việt Nam - 7

(i) Danh mục các loại TK, các nhóm TK cần phải được Nhà nước quy định rõ để áp dụng thống nhất và các nội dung cho phép doanh nghiệp được chủ động, linh hoạt và tự chịu trách nhiệm.

(ii) Trong từng loại TK, từng nhóm TK cần quy định rõ nội dung phản ánh, nguyên tắc kế toán, kết cấu và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh chủ yếu và mối quan hệ với BCTC và báo cáo quản trị.

(iii) Các quy định với loại TK và nhóm TK cần có quy định của Nhà nước để làm cơ sở pháp lý thực hiện thống nhất cho các doanh nghiệp. Việc mở TKKT các cấp và nội dung của từng TKKT nên để doanh nghiệp chủ động, linh hoạt xây dựng cho phù hợp với đặc điểm kinh doanh và yêu cầu quản lý.

Với mục tiêu nghiên cứu để góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống TKKT áp dụng trong doanh nghiệp SXKD ở Việt Nam theo định hướng xác định rõ


tính thống nhất và tăng cường tính chủ động, linh hoạt cho doanh nghiệp, đồng thời đưa ra các giải pháp hoàn thiện để khắc phục các hạn chế của hệ thống TKKT doanh nghiệp theo quy định hiện hành cần nghiên cứu, khảo sát, thông lệ quốc tế nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

2.3. Kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh của các nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam

2.3.1. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới

Khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán trong đó có hệ thống TKKT doanh nghiệp của quốc gia chịu ảnh hưởng của các nhân tố kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó, các nhân tố ảnh hưởng rõ nét nhất là mô hình thiết kế hệ thống luật pháp, hệ thống thuế và thị trường chứng khoán. Các nhân tố này có mức độ ảnh hưởng khác nhau, tạo nên tính đa dạng của khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán của doanh nghiệp.

Hệ thống luật pháp các quốc gia hiện nay được xây dựng theo hai trường phái: Trường phái Luật La Mã (Roman Law) và trường phái Luật Chung (Common Law). Ở các nước Anglo – Saxon, gồm Mỹ, Anh, … hệ thống luật pháp được thiết lập theo mô hình Luật Chung. Theo đó, hệ thống thuế có ảnh hưởng không nhiều đến kế toán. Thị trường chứng khoán có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến pháp luật và các quy định về kế toán doanh nghiệp. Ở các nước khác, hệ thống luật pháp được thiết lập theo mô hình Luật La Mã như Nhật Bản, Pháp, Đức, … Theo đó, hệ thống thuế có ảnh hưởng sâu sắc đến kế toán và thị trường chứng khoán có ảnh hưởng ít đến kế toán doanh nghiệp.

Việc hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp trước tiên cần phải xem xét kinh nghiệm triển khai nghiên cứu, xây dựng khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán doanh nghiệp (trong đó có hệ thống TKKT) của các nước cụ thể. Để rút ra những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới trong việc nghiên cứu hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp SXKD cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam, cần nghiên cứu khái quát quan điểm nghiên cứu xây dựng khuôn khổ


pháp luật và các quy định về kế toán, trong đó có hệ thống TKKT của các nước trên thế giới và của các nước phát triển hoặc có nhiều điểm tương đồng về kinh tế chính trị với Việt Nam (như Mỹ, Pháp, Trung Quốc).

* Tại Mỹ:

Mỹ là quốc gia có nền kinh tế rất phát triển, là quốc gia mà số lượng các tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán rất lớn. Do vậy, đòi hỏi hệ thống kế toán phải được quy định chặt chẽ nhằm đảm bảo thông tin tài chính được trình bày trung thực và từ đó góp phần ổn định thị trường tài chính. Trong nhiều năm qua, Mỹ đã ban hành khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán rất đầy đủ, chi tiết và rất chặt chẽ. Qua nghiên cứu quá trình phát triển của kế toán Mỹ trong các năm gần đây cho thấy:

(i) Khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán của Mỹ gồm đầy đủ Luật Kế toán, hệ thống các nguyên tắc kế toán cơ bản (GAAP), hệ thống CMKT và hệ thống các văn bản hướng dẫn thực hiện CMKT.

(ii) Trong các yếu tố cấu thành khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán, các nguyên tắc kế toán và CMKT có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến thực tiễn triển khai công tác kế toán của doanh nghiệp. CMKT của Mỹ được thiết kế chi tiết theo từng vấn đề kế toán. Có nhiều CMKT được thiết kế theo từng lĩnh vực, ngành nghề đặc thù.

(iii) Khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán của Mỹ chịu ảnh hưởng rất lớn của các tổ chức hiệp hội nghề nghiệp về kế toán, kiểm toán. Thực tế, hệ thống CMKT là do Ủy ban nghiên cứu soạn thảo CMKT tài chính Mỹ (FASB) ban hành. FASB là một tổ chức độc lập với Chính phủ, đây là một tổ chức chuyên nghiệp và độc lập về xây dựng CMKT đầu tiên trên thế giới. Thành viên của FASB bao gồm đại diện các công ty kế toán, kiểm toán, các nhà nghiên cứu, giáo viên các trường đại học, …

(iv) Các quy định của thị trường chứng khoán cũng là một yếu tố cấu thành khuôn khổ pháp luật về kế toán. Các quy định này đưa ra các yêu cầu cơ bản, bắt buộc các


BCTC của các tổ chức niêm yết được lập và công bố trên thị trường chứng khoán phải tuân thủ.

(v) Sự vận dụng khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán ở các doanh nghiệp khá linh hoạt do khuôn khổ pháp luật và các quy định về kế toán chỉ quy định các vấn đề chung nhất. Các phương pháp kỹ thuật như lập chứng từ, thiết lập hệ thống TKKT, ghi sổ kế toán, … do các doanh nghiệp chủ động, linh hoạt thiết kế và thực hiện phù hợp với đặc điểm và điều kiện thực tế của doanh nghiệp.

Như vậy, ở Mỹ không xây dựng hệ thống TKKT thống nhất áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp SXKD trong nền kinh tế. Việc xác định số lượng, tên gọi, mã hiệu TK là do doanh nghiệp quyết định tùy thuộc vào đặc điểm, hoạt động kinh doanh và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Từng doanh nghiệp phải tự xây dựng danh mục hệ thống TKKT các cấp cần thiết và quy định trong tài liệu nội bộ hướng dẫn về các TKKT sử dụng, kết cấu, nội dung và phương pháp kế toán các nghiệp vụ kinh tế trong từng TKKT để thực hiện thống nhất trong từng doanh nghiệp, trong tập đoàn.

Dưới đây là một ví dụ về cách thức đặt mã hiệu TK trong một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tại Mỹ76:

- Loại 1: TK phản ánh tài sản (số hiệu được đặt trong khoảng 100 - 199);

- Loại 2: TK phản ánh nợ phải trả (số hiệu được đặt trong khoảng 200 - 299);

- Loại 3: TK phản ánh nguồn vốn chủ sở hữu (số hiệu được đặt trong khoảng 300 - 399);

- Loại 4: TK phản ánh doanh thu (số hiệu được đặt trong khoảng 400 - 499);

- Loại 5: TK phản ánh chi phí kinh doanh (số hiệu được đặt trong khoảng 500 - 599).

Khi nghiên cứu để xây dựng hệ thống TKKT, doanh nghiệp căn cứ vào đặc điểm kinh doanh, yêu cầu quản lý và nhu cầu cung cấp thông tin theo yêu cầu của kế toán tài chính và kế toán quản trị của doanh nghiệp để xác định danh mục các TKKT sử dụng theo từng loại TK, nhóm TK.


Mã hiệu TK được bắt đầu bằng mã hiệu chỉ loại TK. Các mã hiệu tiếp sau có thể quy định nhóm TK, số thứ tự của TK đồng thời quy định nội dung hạch toán trên từng TK và mối quan hệ giữa các TK trong loại, nhóm TK khác loại nhau.

Hệ thống TKKT do các doanh nghiệp ở Mỹ chủ động triển khai thực hiện và có các đặc điểm như sau:

- Căn cứ xây dựng hệ thống TKKT là nội dung kinh tế của TK. Nghĩa là việc sử dụng TK, tên TK, nội dung phản ánh của từng TK được quy định theo các nhóm TK như: TK tài sản, TK nguồn vốn, TK doanh thu và TK chi phí.

- Hệ thống TKKT được xây dựng trong mối quan hệ với hệ thống BCTC, nghĩa là hệ thống TKKT được phân loại gồm các TK thuộc BCĐKT và các TK thuộc báo cáo KQHĐKD. Các TK thuộc BCĐKT được gọi là các TK thường xuyên. Các TK thường xuyên này được chia thành ba loại là TK tài sản, TK nợ phải trả và TK nguồn vốn chủ sở hữu. Những TK phản ánh tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển và thu hồi vốn trong vòng một năm tài chính hay một chu kỳ kinh doanh được xếp vào một loại TK tài sản ngắn hạn; ngược lại, những TK phản ánh tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển và thu hồi trên một năm tài chính được xếp vào loại TK tài sản dài hạn. Khi sắp xếp các TKKT, các TK tài sản được sắp xếp theo tính luân chuyển giảm dần. Các TK nợ phải trả cũng được chia thành hai loại là TK nợ phải trả ngắn hạn và TK nợ phải trả dài hạn. Các TK phản ánh nguồn vốn chủ sở hữu bao gồm các TK nguồn vốn góp và TK thu nhập giữ lại.

Các TK thuộc báo cáo KQHĐKD được gọi chung là các TK tạm thời. Thuộc loại này bao gồm các TK doanh thu, thu nhập, chi phí. Các TK này được gọi là tạm thời vì chúng được sử dụng để phản ánh tất cả các nghiệp vụ kinh tế liên quan đến doanh thu, thu nhập, chi phí phát sinh trong kỳ, cuối kỳ toàn bộ lợi nhuận sau thuế được kết chuyển về TK thu nhập giữ lại. Các TK thuộc báo cáo KQHĐKD có thể được chi tiết theo các hoạt động kinh doanh hoặc theo nội dung của chi phí, doanh thu. Cách được áp dụng phổ biến là theo dõi theo nội dung doanh thu, thu nhập, chi phí. Ví dụ, doanh nghiệp có thể sử dụng các TK như: TK doanh thu dịch vụ tư vấn; TK doanh thu cung cấp dịch vụ khác; TK doanh thu tiền gửi, tiền cho vay; TK


doanh thu từ bán TSCĐ; … thay cho việc sử dụng chỉ một TK doanh thu để theo dõi cho các khoản doanh thu, thu nhập nói chung.

- Hệ thống TKKT được xây dựng trên cơ sở những yêu cầu chung. Đó là yêu cầu tuân thủ CMKT và yêu cầu cung cấp thông tin cho lập và trình bày BCTC theo các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận.

Mặc dù hệ thống TKKT xây dựng theo phương án này có nhiều thuận lợi như tạo khả năng tư duy năng động cho người làm kế toán viên trong doanh nghiệp (trong mục tiêu hướng tới việc cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời cho người quản lý và tuân thủ CMKT và các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận). Tuy nhiên, hệ thống TKKT được xây dựng theo cách thức này vẫn có một số tồn tại nhất định. Do doanh nghiệp được chủ động thiết kế và triển khai thực hiện hệ thống TKKT nên có sự khác nhau trong các doanh nghiệp. Sự khác nhau này chưa thực sự thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức thực hiện các công việc thanh tra, kiểm tra kế toán và pháp luật về thuế của doanh nghiệp. Những người làm công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán phải thêm chi phí và thời gian tìm hiểu hệ thống TKKT của từng doanh nghiệp. Hạn chế này sẽ không gặp phải nếu có hệ thống TKKT áp dụng thống nhất trong doanh nghiệp. Để khắc phục nhược điểm này, các tập đoàn kinh tế lớn của Mỹ đã tự thiết kế hệ thống TKKT để áp dụng thống nhất cho tất cả các công ty thành viên trong và ngoài nước của tập đoàn để đảm bảo tuân thủ các chính sách kế toán, CMKT để có đủ thông tin lập và trình bày BCTC hợp nhất theo yêu cầu của tập đoàn và các quy định về kế toán của Mỹ đối với các doanh nghiệp ở Mỹ.

Tóm lại, hệ thống TKKT Mỹ được các doanh nghiệp xây dựng trên cơ sở CMKT và theo yêu cầu quản lý. Các TK được bố trí sắp xếp trong quan hệ chặt chẽ với các BCTC có thể thu thập được các thông tin cần thiết cho việc lập và trình bày BCTC trong thời gian nhanh nhất, chính xác nhất và đảm bảo tính trung thực, khách quan đảm bảo tuân thủ pháp luật và các quy định về kế toán.

* Tại Pháp:

Pháp là quốc gia xây dựng và ban hành hệ thống TKKT theo xu hướng thống nhất để áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.


Hệ thống TKKT doanh nghiệp của Pháp được ban hành năm 1947 và hệ thống TKKT này chỉ bao gồm các TKKT thuộc kế toán tài chính mà chưa có các TKKT thuộc kế toán quản trị. Hệ thống TKKT năm 1947 được bổ sung, sửa đổi vào năm 1957 và đã bổ sung các TKKT thuộc kế toán quản trị (được gọi là “Hệ thống TKKT năm 1957”). Hệ thống TKKT năm 1957 tiếp tục được bổ sung, sửa đổi và ban hành lại vào năm 1982 do Hội đồng Quốc gia về kế toán soạn thảo và được phê chuẩn theo Nghị định ngày 27/04/1982 của Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính thay thế hệ thống TKKT năm 1957. Hệ thống TKKT ban hành năm 1982 được áp dụng từ năm 1984. Hệ thống TKKT này tiếp tục được bổ sung, sửa đổi và ban hành theo Nghị định ngày 9/12/1986 của Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính Pháp và hệ thống TKKT năm 1986 được tiếp tục bổ sung, sửa đổi và ban hành năm 1999 và các năm sau đó do có sự thay đổi trong các CMKT quốc tế, đặc biệt khi Pháp tham gia là thành viên Liên minh Châu Âu (EU) thì phải tham tất cả các quy định của EU. Theo đó, tất cả các đơn vị có lợi ích công chúng như tổ chức niêm yết, doanh nghiệp bảo hiểm, tổ chức tín dụng của các nước là thành viên của EU phải áp dụng CMKT quốc tế về lập và trình bày BCTC (IFRS) trước năm 2005. Vì vậy, trong các năm qua, Pháp đã có nhiều nghiên cứu bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện hệ thống TKKT doanh nghiệp để đảm bảo tuân thủ CMKT quốc tế.

Hệ thống TKKT doanh nghiệp của Pháp được chia thành 8 loại (được đánh số từ 1 đến 8) thuộc phạm vi kế toán tài chính và TK loại 9 thuộc phạm vi kế toán quản trị54. Mỗi loại có nhiều TK tổng hợp và chi tiết căn cứ vào nội dung các nghiệp vụ kinh tế.

Trong phạm vi kế toán tài chính, các doanh nghiệp sử dụng 8 loại TK và khi hạch toán chi phí, kế toán hạch toán chi phí theo yếu tố chi phí mà không theo dõi theo khoản mục. Trong phạm vi kế toán tài chính, kế toán không thực hiện tính giá thành, tính giá vốn của thành phẩm, dịch vụ sản xuất hoặc cung cấp. Trong phạm vi kế toán quản trị, các doanh nghiệp tùy thuộc vào đặc điểm riêng, nhu cầu của quản lý để lựa chọn các tài khoản cần thiết trong loại 9 để sử dụng cho doanh nghiệp.

Hệ thống TKKT doanh nghiệp của Pháp đề cập đến các nội dung sau:

Xem tất cả 228 trang.

Ngày đăng: 23/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí