Đa Dạng Hoá Các Loại Sản Phẩm, Dịch Vụ Kinh Doanh Để Phân Tán Rủi Ro


vay chính là việc xác định khách hàng có đủ khả năng vay vốn hay không? và nếu cho vay thì khách hàng có đủ khả năng trả nợ hay không? Cán bộ làm công tác thẩm định phải là những người có đủ trình độ, kinh nghiệm lâu năm, đồng thời phải nắm bắt, cập nhật thông tin một cách nhanh chóng. Chính vì vậy, để chất lượng thẩm định dự án/phương án đạt chất lượng, Agribank cần bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm trong nghiệp vụ tín dụng, thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận và khóa học về thẩm định dự án để cập nhật thông tin, nắm vững phương pháp thẩm định dự án.

Khi thẩm định dự án thì phải thẩm định hai đối tượng là khách hàng và TSBĐ. Đối với khách hàng thì cần phải thẩm định về những thông tin khách hàng đưa ra có chính xác hay không? và với những thông tin đó khách hàng có đủ điều kiện vay vốn hay không? Khi thẩm định khách hàng thì hai yếu tố quan trọng nhất là uy tín và khả năng tài chính của khách hàng. Đối với TSBĐ thì cần phải thẩm định xem TSBĐ đó có đủ điều kiện đảm bảo cho khoản vay hay không? Khi cả hai đối tượng cần thẩm định đều đạt yêu cầu thì lúc đó mới quyết định cho vay.

Thực tế đã chứng minh rằng mặc dù cán bộ thẩm định đã thẩm định cả hai đối tượng trên nhưng vẫn xảy ra trường hợp khách hàng là những công ty ma, một TSBĐ được đem đi thế chấp tại nhiều ngân hàng, TSBĐ không đăng ký chính chủ nhưng vẫn đem ra thế chấp và nhiều trường hợp lừa đảo khác. Chính vì vậy, bên cạnh những hiểu biết nghiệp vụ thì đức tính cẩn trọng là cần thiết đối với cán bộ làm công tác thẩm định.

Sau khi đã quyết định cho vay, đối với những dự án lớn, Agribank cần thực hiện tái thẩm định khi thị trường có biến động, ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh doanh của khách hàng. Đồng thời khi có những biến động xấu đối với TSBĐ của khách hàng, Agribank phải khẩn trương thực hiện những biện pháp sau:

- Yêu cầu khách hàng bổ sung TSBĐ, ngoài tài sản của khách hàng có thể dùng tài sản cá nhân; đề nghị Chủ tịch HĐQT/HĐTV, Tổng Giám đốc/giám đốc, kế toán trưởng,... đứng ra bảo lãnh để vay vốn ngân hàng; áp dụng các biện pháp cầm cố quyền đòi nợ, bảo lãnh của Tổng công ty.

- Giảm dần dư nợ nếu khách hàng không đáp ứng đủ điều kiện TSBĐ theo quy định của Agribank.


3.2.2.6. Đa dạng hoá các loại sản phẩm, dịch vụ kinh doanh để phân tán rủi ro

Hiện tại, hoạt động kinh doanh của Agribank vẫn chủ yếu là hoạt động tín dụng đơn thuần và chưa đẩy mạnh mở rộng các sản phẩm dịch vụ khác. Mặc dù hoạt động tín dụng là lĩnh vực cạnh tranh mạnh của Agribank nhưng lại chưa thật sự phát triển nên thị phần tín dụng có thể ngày càng sẽ bị thu hẹp, khi mà các NHTM khác đang có nhiều chính sách ưu đãi thu hút khách hàng, đến một lúc nào đó nếu Agribank không có những chiến lược để giữ khách hàng tốt thì sẽ mất dần ưu thế và kết quả kinh doanh chắc chắn bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vậy, để Agribank trở thành một NHTM có thế mạnh về hoạt động tín dụng và luôn đứng vững trên thương trường, Ban lãnh đạo Agribank cần phải:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 269 trang tài liệu này.

- Chỉ đạo các chi nhánh mở rộng các loại hình cho vay, đẩy mạnh cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh cá thể, cho vay mua cổ phần/ cổ phiếu, cho vay cán bộ công nhân viên mua nhà theo các dự án, cho vay hỗ trợ sinh viên du học; cần xác định rõ đối tượng khách hàng truyền thống mà Agribank cần tập trung phục vụ.

- Trong quá trình nghiên cứu và triển khai các sản phẩm dịch vụ mới nhiều đặc tính hấp dẫn và phong phú, Agribank cần phải lường trước những rủi ro tiềm ẩn ngay trong những sản phẩm mới này để phòng ngừa hạn chế được rủi ro. Muốn vậy, mỗi khi phát triển một sản phẩm mới, giá của sản phẩm dịch vụ phải được tính toán trước theo các phương pháp tính giá hiện đại.

Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - 23

3.2.2.7. Triển khai các phương pháp, kỹ thuật cho vay mới - hiện đại

Hiện nay, theo phương pháp cho vay tại Agribank, mức phán quyết cho vay thường dựa trên giá trị TSBĐ của khách hàng. Mặc dù không thể phủ nhận đây là một hình thức bảo đảm khá hiệu quả trong thời gian thị trường bất động sản luôn tăng nóng và nó gắn trách nhiệm trả nợ cho khách hàng do dự ràng buộc về TSBĐ. Tuy nhiên trên thực tế thời gian qua, phương pháp này đã bộc lộ những rủi ro rất lớn do thị trường bất động sản tại Việt Nam đóng băng thời gian dài, giá giảm mạnh; việc cho vay quá phụ thuộc và chủ yếu dựa trên giá trị TSBĐ đã bỏ sót những chỉ số về năng lực tài chính, không phản ánh đúng thực trạng dòng tiền, xác định sai kỳ hạn và khả năng trả nợ của khách hàng dẫn tới những rủi ro về TSBĐ trong thời gian qua.

Để khắc phục những hạn chế nêu trên, Agribank cần đa dạng hoá các phương pháp cho vay đối với từng đối tượng khách hàng cụ thể. Ví dụ như áp dụng các


phương pháp cho vay tiên tiến như “Phương pháp cho vay dựa trên dòng tiền - Cash-flow lending” để hạn chế những rủi ro từ các phương pháp cho vay hiện nay.

3.2.3. Xây dựng môi trường quản lý tín dụng theo các nguyên tắc Basel II

Để từng bước hoàn thiện chính sách, quy trình quản lý RRTD của mình để trở thành một NHTM có quy trình quản lý rủi ro hiện đại, thành công, khi xây dựng các chính sách quản lý RRTD, Agribank cần tuân thủ theo những nguyên tắc Basel II.

Về nhận thức, luận án cho rằng, Hiệp ước Basel II có lẽ đã không đạt được sự công nhận và áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới nếu nó không đánh dấu sự ra đời của phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ IRB, với linh hồn là việc giới thiệu 03 cấu phần rủi ro: Xác suất không trả được nợ (PD), tổn thất dự kiến tại thời điểm không trả được nợ (LGD) và dư nợ dự kiến tại thời điểm không trả được nợ (EAD); và ứng dụng của các cấu phần này vào công tác quản trị RRTD. Do đó, một trong những điều kiện căn bản để một ngân hàng được công nhận tuân thủ Basel II theo IRB là ngân hàng phải chuẩn bị và tuân thủ các quy định hết sức khắt khe về việc xây dựng HTXHTDNB, tính toán các giá trị ước lượng rủi ro tín dụng PD, LGD, EAD dựa trên chính thực trạng hoạt động của ngân hàng, từ đó tính toán chuẩn xác khối lượng vốn tối thiểu bù đắp rủi ro cần nắm giữ. Bên cạnh đó, việc ngân hàng ứng dụng kết quả các mô hình đo lường RRTD từ HTXHTDNB (được gọi là IRB Use Test) vào phê duyệt tín dụng, quản lý rủi ro, phân bổ vốn nội bộ và quản trị doanh nghiệp cũng là một trong những yếu tố mang tính chất quyết định trong quá trình đánh giá của cơ quan quản lý và giám sát để cấp chứng nhận tuân thủ phương pháp tiếp cận IRB cho một ngân hàng (Hiệp ước Basel II, Đoạn 444).

Với quy định khắt khe về HTXHTDNB và việc ứng dụng các cấu phần IRB (PD/LGD/EAD) vừa làm đầu vào tính toán yêu cầu vốn an toàn tối thiểu, vừa phục vụ các quyết định quản lý nội bộ khác, Ủy ban Basel II đã tạo động lực thúc đẩy các ngân hàng: (i) xây dựng các giá trị ước lượng RRTD phản ánh chính xác trạng thái rủi ro thực tế, qua đó tối ưu hóa lượng vốn đầu tư trên cơ sở vừa bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng vừa tránh lãng phí vốn, đồng thời (ii) duy trì hệ thống công nghệ thông tin/cơ sở dữ liệu chất lượng, chi tiết, bảo đảm các cấu phần IRB luôn chính xác và được cập nhật, nền tảng cho thực hành quản lý RRTD lành mạnh, chủ động và hiệu quả. Nói cách khác, Ủy ban Basel không chỉ yêu cầu các ngân hàng nắm giữ đầy đủ vốn bù đắp rủi ro, quan trọng hơn, Ủy ban khuyến nghị các


ngân hàng nghiên cứu và triển khai các kỹ thuật quản lý rủi ro hiện đại và quy trình nội bộ phát hiện, đo lường, đánh giá, kiểm soát rủi ro tốt hơn trong suốt chu trình tín dụng, tạo môi trường kinh doanh ngân hàng phát triển an toàn, bền vững.

Các ứng dụng cơ bản của HTXHTDNB trong quản lý RRTD (IRB Use Test)

Mặc dù thực hành ứng dụng kết quả các mô hình đo lường RRTD cho mục đích quản trị nội bộ có thể khác nhau giữa các ngân hàng tùy theo mức độ hiệu lực của mô hình, mức độ phức tạp của hoạt động kinh doanh và rủi ro tiềm ẩn, trình độ quản lý điều hành, nhìn chung IRB Use Test thường quan sát được ở 03 lĩnh vực chính: Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch; đo lường và quản lý các trạng thái RRTD; báo cáo và giám sát. Cụ thể:

(i) Xây dựng chiến lược và lập kế hoạch bao gồm các hoạt động liên quan đến việc ngân hàng xây dựng mục tiêu kinh doanh trong phạm vi khẩu vị rủi ro đã xác định, xây dựng chính sách và kế hoạch để đạt được mục tiêu đề ra, phân bổ nguồn lực để thực hiện kế hoạch này. Trước hết, khẩu vị rủi ro tổng thể được phân bổ thành mức độ chấp nhận rủi ro (mức tối đa ngân hàng chấp nhận) thể hiện qua các chỉ số rủi ro (KRI). Mức độ chấp nhận rủi ro được kết nối với kế hoạch kinh doanh và thước đo hiệu quả kinh doanh của từng đơn vị thông qua mục tiêu rủi ro (mức rủi ro tối ưu ngân hàng hướng tới để theo đuổi mục tiêu kinh doanh). Ngân hàng thiết lập giới hạn rủi ro bao gồm giới hạn cận trên và cận dưới (mục tiêu rủi ro nằm trong phạm vi 02 ngưỡng này), phản ánh các ngưỡng giám sát nhằm giữ trạng thái rủi ro thực tế không biến động quá lớn so với mục tiêu và mức cảnh báo để điều chỉnh kịp thời trạng thái rủi ro nếu vượt ngưỡng. Vốn bù đắp rủi ro được phân bổ cho từng đơn vị kinh doanh tương ứng với giới hạn rủi ro đã thiết lập. Các cấu phần IRB chính là cơ sở để ngân hàng xây dựng bộ chỉ số rủi ro, mục tiêu rủi ro, giới hạn/ngưỡng rủi ro và vốn phân bổ phù hợp.

(ii) Đo lường và quản lý trạng thái RRTD bao gồm các hoạt động liên quan đến quản lý và kiểm soát RRTD phát sinh từ việc triển khai chiến lược/kế hoạch. Cụ thể:

- Phê duyệt tín dụng:

+ Đối với khách hàng bán lẻ, thẻ chấm điểm cấp tín dụng khách hàng mới (Application Scorecard) được đánh giá như nhân tố cốt lõi của quá trình phê duyệt tín dụng tự động cho các sản phẩm bán lẻ tiêu chuẩn hóa. Dựa trên kế hoạch kinh doanh như tỷ lệ phê duyệt kỳ vọng, thu nhập/lợi nhuận dự kiến tại mỗi mức rủi ro, ngân


hàng xác định mức điểm cut-off tự động phê duyệt (accept) hoặc từ chối (reject) hoặc xem xét điều chỉnh (low-side override/high-side override) đơn xin vay trong vòng chưa đến 30 phút thay vì cán bộ thẩm định từng khách hàng/phương án vay vốn cụ thể (thông thường mất từ 01-02 ngày) để đưa ra quyết định tín dụng như trước đây.

+ Đối với khách hàng doanh nghiệp, hạng tín dụng khách hàng (obligor rating

- PD) và khoản vay (facility rating - LGD/EAD) là dấu hiệu trọng yếu phản ánh khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của khách hàng, được sử dụng làm đầu vào cho quá trình phê duyệt tín dụng.

- Rà soát và kiểm soát tín dụng:

+ Đối với khách hàng bán lẻ: Do đặc trưng hành vi trả nợ thường xuyên theo thói quen, số lượng khách hàng lớn, giá trị khoản vay nhỏ, công tác kiểm soát RRTD bán lẻ cần thực hiện tại cấp độ danh mục, theo từng nhóm (pool) có rủi ro tương đồng dựa trên ứng dụng của thẻ chấm điểm hành vi (Behaviour Scorecard) trong hệ thống cảnh báo sớm.

+ Đối với khách hàng doanh nghiệp: Khác với khách hàng bán lẻ, khách hàng doanh nghiệp không có thẻ điểm hành vi, giám sát tín dụng đối tượng này dựa trên việc thường xuyên theo dõi và đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh, năng lực tài chính, lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng cũng như diễn biến của môi trường kinh tế vĩ mô. Ước lượng PD là một trong những nguồn thông tin quan trọng phản ánh khả năng trả nợ của khách hàng với ngân hàng, từ đó ngân hàng áp dụng biện pháp quản lý thích hợp, ví dụ PD cao chỉ báo cán bộ quan hệ khách hàng và cán bộ quản lý danh mục cần theo dõi khách hàng và khoản vay chặt chẽ hơn.

- Định giá khoản tín dụng theo rủi ro là việc áp dụng lãi suất cho vay phù hợp với rủi ro tương ứng của khoản vay: Để tính toán lợi nhuận biên của một giao dịch, các chi phí bao gồm chi phí rủi ro tiêu chuẩn, chi phí hoạt động và chi phí sử dụng vốn được khấu trừ khỏi tổng lợi nhuận biên từ lãi vay và thu nhập từ phí và hoa hồng. Chi phí rủi ro tiêu chuẩn được ước lượng bằng tổn thất dự kiến (EL) của khoản vay được bao gồm trong giá, bảo đảm giao dịch mang lại cơ hội sinh lợi. Chi phí vốn trang trải tổn thất ngoài dự kiến (UL) phát sinh từ rủi ro chủ sở hữu ngân hàng phải gánh chịu khi vốn của họ được sử dụng. Nếu đóng góp lợi nhuận biên từ lãi vay bù đắp được EL và UL, ngân hàng mặc định sẽ thu được lợi nhuận biên tích cực trước khi thực hiện cho vay, củng cố khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng.


- Đánh giá hiệu quả hoạt động theo rủi ro (RAMP): Các chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động truyền thống như ROA, ROE được tính toán dựa trên số liệu kế toán, chỉ tập trung vào lợi nhuận mà bỏ qua khía cạnh rủi ro liên quan, đồng thời hàm ý vốn được phân bổ đồng đều cho tất cả các đơn vị kinh doanh, không phân biệt mức độ rủi ro khác nhau. Các thước đo hiệu quả hoạt động theo rủi ro như lợi nhuận kinh tế (EP), thu nhập trên vốn kinh tế (ROEC), tỷ suất lợi nhuận điều chỉnh rủi ro trên vốn (RAROC), tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều chỉnh rủi ro (RORAC)... được tính toán trên nền tảng các thước đo IRB, sẽ khắc phục được nhược điểm của những chỉ số ROA, ROE đơn giản. RAMP hỗ trợ đánh giá lợi nhuận trên vốn thống nhất giữa các đơn vị kinh doanh; phân bổ vốn và nguồn lực cho các đơn vị kinh doanh có lợi nhuận điều chỉnh rủi ro cao đồng thời ghi nhận và khen thưởng các đơn vị sử dụng vốn hiệu quả; dự trữ đầy đủ vốn bù đắp UL ở mức độ tin cậy nhất định trong một khoảng thời gian xác định.

- Trích lập dự phòng RRTD: Hiện nay, Hiệp hội chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) chưa có quy định chính thức về việc sử dụng kết quả mô hình đo lường rủi ro tín dụng IRB trong trích lập DPRR, song Hiệp ước Basel II đã có hướng dẫn so sánh tổn thất dự kiến EL (phương pháp tiếp cận IRB) và DPRR (phương pháp tiếp cận chiết khấu dòng tiền tương lai về hiện tại) để có ứng xử vốn nội bộ tương ứng. Tuy nhiên, ngày 07/03/2013, IASB đã đề xuất ban hành Chuẩn mực kế toán IFRS 9 ghi nhận dự phòng RRTD dựa trên mô hình tổn thất dự kiến (EL) sử dụng các ước lượng rủi ro PD/LGD/EAD và đang áp dụng thử nghiệm tại một số nước châu Âu và châu Mỹ.

- Quản lý danh mục tín dụng: RRTD danh mục cũng được đặc trưng bởi tổn thất dự kiến (EL) và tổn thất ngoài dự kiến (UL) danh mục. Mức độ biến động của tổn thất tại cấp độ danh mục phụ thuộc vào 02 yếu tố: mức độ tập trung và mức độ tương quan. Mức độ tập trung phản ánh khả năng đa dạng hóa danh mục để giảm thiểu rủi ro cụ thể (specific risk) thông qua tập hợp các khách hàng cụ thể trong danh mục tín dụng. Tương quan phản ánh sự nhạy cảm của danh mục tín dụng đối với các thay đổi của các yếu tố kinh tế vĩ mô, xác định các ngành nghề dễ bị ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh tế (rủi ro hệ thống - systematic risk). Quản lý danh mục tín dụng chủ động kết hợp các biện pháp quản lý truyền thống như giám sát và báo cáo dư nợ tập trung cho các phân khúc danh mục, điều chỉnh danh mục bằng cách mua


và nắm giữ... Với các mô hình đo lường rủi ro danh mục. Hiểu biết tốt hơn về rủi ro danh mục, đa dạng hóa danh mục, từ đó tối ưu hóa danh mục, nâng cao lợi nhuận điều chỉnh rủi ro toàn danh mục.

(iii) Báo cáo và giám sát xác định luồng thông tin từ chức năng đo lường và quản lý RRTDđến các chức năng quản lý khác trong cơ cấu tổ chức của ngân hàng. Thông tin rủi ro phải được báo cáo thường xuyên, hỗ trợ ra quyết định tín dụng, đồng thời phục vụ công tác quản lý, kiểm tra/giám sát, phát hiện sớm rủi ro phát sinh đột ngột ngoài dự kiến để kịp thời kích hoạt biện pháp khắc phục phù hợp. Với yêu cầu khắt khe về mặt dữ liệu theo phương pháp IRB, chất lượng thông tin báo cáo do vậy cũng được nâng cấp. Ngoài ra, các cấu phần IRB hỗ trợ tốt hơn việc lập báo cáo rủi ro danh mục (xếp hạng chất lượng nợ theo ngành kinh tế, theo sản phẩm tín dụng...) và lợi nhuận danh mục (RAROC theo chuyên viên, theo chi nhánh, theo từng khối kinh doanh...).

Khuyến nghị của Ủy ban giám sát Basel

Như trên đã phân tích, Ủy ban Basel luôn nhấn mạnh quan điểm rằng cơ quan giám sát quốc gia không chấp nhận chứng thực việc tuân thủ phương pháp tiếp cận IRB đối với các ngân hàng chỉ sử dụng các cấu phần IRB với mục đích tính toán vốn theo yêu cầu. Các ngân hàng cần chứng minh với cơ quan giám sát về sự tin tưởng của bản thân ngân hàng với các ước lượng nội bộ này thông qua các việc áp dụng rộng rãi trong các ứng dụng Use test, cũng như phân tích ảnh hưởng ngược trở lại của Use test tới việc duy trì tính chính xác của các cấu phần IRB. Cách thức ngân hàng đưa các cấu phần PD, LGD, EAD vào trong thực tiễn hoạt động kinh doanh, quản lý rủi ro có thể khác nhau nhưng ngân hàng cần đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:

(i) Triển khai các ứng dụng Use test phải đủ trọng yếu để tạo ra một áp lực liên tục về chất lượng đối với các cấu phần IRB và tạo động lực cho nội bộ ngân hàng tin tưởng cũng như dành sự quan tâm thích đáng đến tính chính xác của các cấu phần IRB. Đứng về phía cơ quan giám sát, cần xem xét tính chính xác, hiệu lực, cập nhật của các cấu phần IRB xuất phát từ nhu cầu sử dụng trực tiếp hoặc gián tiếp các cấu phần này trong công tác quản trị rủi ro của một ngân hàng và đây là một trong những yếu tố giúp đánh giá sự tuân thủ phương pháp tiếp cận nội bộ IRB.


(ii) Tính nhất quán và khác biệt khi sử dụng các cấu phần IRB cho mục đích tính toán vốn bù đắp rủi ro và Use test cần được chứng minh cụ thể.

Các ước lượng sử dụng trong các quy trình quản lý rủi ro có thể khác biệt so với cấu phần IRB cơ bản khi tính toán vốn. Sai khác này có thể xuất phát từ sự không tương thích giữa yêu cầu thận trọng của khung IRB với thực hành quản lý rủi ro của bản thân ngân hàng, điều này gây nên mối quan ngại về chất lượng các cấu phần IRB trong tính toán vốn. Tuy nhiên, ý nghĩa của Use test đối với việc tuân thủ IRB vẫn có thể được duy trì nếu ngân hàng chứng minh được mức độ thống nhất giữa các cấu phần IRB cơ bản trong tính toán vốn và ước lượng đã được điều chỉnh trong Use test là đủ lớn để tạo nên động lực nhằm kiểm soát chất lượng các cấu phần IRB, đồng thời cung cấp các tài liệu có liên quan làm bằng chứng cho việc sử dụng các cấu phần IRB trong quy trình quản lý rủi ro nội bộ.

Đề xuất một số giải pháp xây dựng và ứng dụng HTXHTDNB theo phương pháp IRB tại Agribank

Giải pháp đối với Agribank:

Để xây dựng HTXHTDNB đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn của IRB - Basel II, Agribank cần đầu tư một nguồn lực không nhỏ cho các công việc sau:

(i) Hoàn thiện cơ sở dữ liệu

Cơ sở dữ liệu đầy đủ, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng là thách thức lớn nhất và rõ ràng nhất đối với Agribank, tiêu tốn nhiều nguồn lực và thời gian nhất do Agribank phải mất ít nhất 5-7 năm dữ liệu để đảm bảo cho việc phân tích, xây dựng và kiểm định các mô hình qua một chu kỳ kinh tế. Do đó, Agribank cần phải chú trọng hoàn thiện cơ sở dữ liệu ngay từ ngày hôm nay, thậm chí phục dựng lại dữ liệu quá khứ để đẩy nhanh tiến trình.

(ii) Đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ

Việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu khách hàng kéo theo yêu cầu đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng công nghệ đồng bộ từ hệ thống ghi nhận thông tin khách hàng, khởi tạo, phê duyệt khoản vay, hệ thống ngân hàng lõi quản lý giao dịch, hệ thống quản lý hạn mức, quản lý TSBĐ cho đến hệ thống quản lý rủi ro, cảnh báo sớm, quản lý thu hồi và xử lý nợ, kho dữ liệu doanh nghiệp... Đây là một sự đầu tư lớn đòi hỏi các ngân hàng phải chuẩn bị tiềm lực tài chính cũng như nhân sự để triển khai.

Xem tất cả 269 trang.

Ngày đăng: 02/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí