Quản lý nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Sơn La - 12


hiệu, bản quyền, kiểu dáng công nghiệp; hệ thống hoá mẫu mã sản phẩm, giới thiệu trên website UBND tỉnh, website của hiệp hội ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và website của hiệp hội Ngành nghề Sơn La; cung cấp, trao đổi thông tin về thị trường; tổ chức mỗi năm ít nhất 02 đợt hỗ trợ doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp và làng nghề tham gia hội chợ, triển lãm trong nước.

- Chính sách bảo tồn và phát triển ngành nghề truyền thống TTCN

+ Khôi phục, bảo tồn các làng nghề truyền thống có từ lâu đời đang có nguy cơ bị mai một, thất truyền; những làng nghề phát triển không ổn định: Dệt thổ cẩm Thái ở Thèn Luông Yên Châu; Dệt vải lanh, nghề rèn của dân tộc H’mông tại Mộc Châu; làm gốm của người Thái đen ở bản Mé và bản Ban ở Chiềng Cơi thành phố Sơn La; làm gốm ở xã Mường Chanh, Mai Sơn.

+ Phát triển những làng nghề phát triển mạnh, có sự lan tỏa sang khu vực lân cận: làng nghề sản phẩm như rọ tôm, sản xuất lưới, bẫy, đóng thuyền ở xã Chiềng Bằng lan rộng các xã dọc sông Đà; Hợp tác xã Nặm La (bản Giảng Lắc, phường Quyết Thắng), bản Ái (xã Chiềng Xôm), bản Coóng Nọi (phường Chiềng Cơi)trên địa bàn thành phố Sơn La sản xuất, kinh daonh các sản phẩm thêu dệt làm khăn, áo dân tộc, vỏ chăn, gối, ri- đô, rèm cửa, địu, tay nải, khăn trải bàn bằng thổ cẩm.

3.2.3. Đảm bảo đồng bộ kết cấu hạ tầng

- Tỉnh chỉ đạo các ngành đẩy nhanh nâng cấp cải tạo các tuyến đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, điện, cấp thoát nước, trường học, trạm xá… các khu đô thị, trung tâm thương mại…. đồng bộ từ tỉnh đến các địa phương, một số tuyến đường mới tạo không gian phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và cho các làng nghề phát triển nói riêng.

- Phát triển làng nghề gắn với phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng (đường giao thông để lưu thông hàng hoá, phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch làng


nghề, xây dựng trường, trạm xá, điện, nước sạch nông thôn, nâng cấp các di sản văn hoá, các di tích lịch sử thuộc làng, các hội trường để bảo đảm sinh hoạt cho nhân dân, các điểm văn hoá xã, các sân bãi tập thể thao…) để tạo điều kiện cho người lao động làng nghề sinh hoạt, hội họp vui chơi giải trí để an tâm công tác, bảo đảm sức khoẻ nâng cao năng suất lao động… đồng thời giảm khoảng cách về vật chất, tinh thần giữa thành thị và nông thôn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

3.2.4. Giải pháp đảm bảo nguyên liệu

Phát triển làng nghề tạo ra nhiều sản phẩm đi đôi với việc đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất. Đây là một trong những yếu tố quang trọng quyết định đến kết quả của quá trình sản xuất.

Quản lý nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống trên địa bàn tỉnh Sơn La - 12

- Tỉnh tiến hành quy hoạch các vùng nguyên liệu tập trung; phối hợp với các tỉnh bạn xây dựng kế hoạch sản xuất gắn với kế hoạch khai thác, cung ứng nguyên vật liệu trên cơ sở chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi… làm nguyên liệu cho công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp bảo đảm cung cấp đủ về số lượng chất lượng cho công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, lâm sản cho các làng nghề. Bước đầu tiêu chuẩn hoá các loại nguyên liệu để đảm bảo chất lượng sản phẩm và tiết kiệm cho sản xuất.

- Giành quỹ đất hình thành các chợ nguyên liệu làng nghề để các hộ gia đình làm nghề mua, bán nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp hàng thủ công mỹ nghệ.

- Hình thành các tổ chức liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình với các tổ chức doanh nghiệp và hộ gia đình ngoài tỉnh đầu tư vốn tạo vùng nguyên liệu nuôi trồng cây con, hoặc khai thác các nguồn nguyên liệu cung cấp cho làng nghề.

3.2.5. Các giải pháp về tài chính, tín dụng, thuế.

- Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách khuyến khích phát triển ngành


nghề nông thôn đã được quy định trong quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24/11/2000 và quyết định 123/2001QĐ-TTg ngày 07/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ; Nghị định 134/2004/NĐ-CP ngày 09/6/2004 của Chính phủ về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn; Nghị định 66/2006/NĐ-CP ngày 07/7/2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn.

- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để phát triển làng nghề, ngành nghề nông thôn (vốn ngân sách nhà nước, vốn các thành phần kinh tế, vốn tổ chức phi chính phủ, vốn các chương trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, vốn hỗ trợ nghề nghiệp, vốn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, vốn của thành viên HTX, tổ hợp tác, công ty cổ phần, công ty TNHH, vốn liên doanh liên kết…) trong các làng nghề. Ngân sách tỉnh hỗ trợ thông qua các dự án cụ thể, các dự án trọng điểm môi trường, hỗ trợ toàn bộ kinh phí xây dựng và đăng ký bảo hộ thương hiệu sản phẩm, kinh phí khảo sát công nhận làng nghề, nâng cao quy mô kinh phí khuyến công.

- Trích một phần từ nguồn vốn đấu giá quyền sử dụng đất của cấp huyện để hỗ trợ cho phát triển làng nghề.

- Nâng cao chất lượng hoạt động và chủ động phát triển thị trường và dịch vụ tài chính. Các tổ chức tín dụng, ngân hàng đầu tư phát triển tỉnh chủ động phối hợp với các dự án đầu tư mạnh việc cho vay vốn mua thiết bị, máy móc xây dựng hạ tầng điểm công nghiệp, làng nghề theo quy hoạch tạo cho làng nghề phát triển với chính sách cho vay ưu đãi hơn.

- Các ngành chuyên môn của tỉnh có các chương trình, kế hoạch để huy động mọi nguồn vốn để nâng cấp hạ tầng làng nghề (đường giao thông, điện, cấp thoát nước, bảo tồn các di tích lịch sử, tôn tạo các giá trị văn hoá…) trong các làng nghề.

- Cần có chính sách thu thuế phù hợp với từng giai đoạn phát triển làng


nghề, nhằm bảo đảm cho làng nghề phát triển vừa nuôi dưỡng được nguồn thu; Các doanh nghiệp mới thành lập phục vụ trong các lànng ghề, các làng từ thuần nông bắt đầu xây dựng làng có nghề sau 3 năm; phấn đấu đến năm 2015 trên địa bàn tỉnh không có xã trắng nghề.

- Thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 90/NĐ-CP của Chính phủ nói chung và cho các làng nghề nói riêng để cho các doanh nghiệp vay vốn phát triển tạo điều kiện cho các hộ sản xuất làng nghề ổn định.

3.2.6. Về chính sách phát triển các làng nghề gắn với du lịch

- Các cơ quan có liên quan cần khẩn trương thống nhất quan điểm, tạo quỹ đất cho việc quy hoạch phát triển làng nghề găn với du lịch

- Đối với các làng nghề đã được quy hoạch phát triển găn với du lịch cần nhanh chóng cải thiện cơ sở vật chất, dịch vụ, cải thiện môi trường để chuẩn bị đón khách du lịch

- Nên mở các lớp phổ biến kiến thức tuyên truyền cho người dân hiểu được chủ trương này của Tỉnh và giúp họ có những kỹ năng cần thiết khi vừa sản xuất vừa kết hợp với dịch vụ du lịch.

- Phối hợp với các đơn vị kinh doanh du lịch để giúp các đơn vị này tổ quảng bá, tổ chức các tua du lịch làng nghề. Hỗ trợ tập huấn cho các nhân viên làm du lịch để họ có thể thành thạo khi hướng dẫn khách đến du lịch các làng nghề.

3.2.7. Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước trong việc quản lý Nhà nước về phát triển làng nghề truyền thống

- Cần kiện toàn tổ chức bộ máy nhà QLNN gắn với việc cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ của bộ máy QLNN, đẩy mạnh cải cách các thủ tục hành chính có liên quan.. Thanh kiểm tra thường xuyên hoạt động của các doanh nghiệp,


cơ sở sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh về việc chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước.

- Để phát triển thêm nhiều ngành nghề, nhiều làng nghề và doanh nghiệp làng nghề ở nông thôn. Nhà nước có vài trò rất quan trọng, Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, xây dựng các quy hoach, kế hoạch, giải quyết các nhu cầu mặt bừng, vốn, tìm kiếm thị trường và ứng dụng công nghề và kỹ năng quản lý, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực, tôn vinh nghệ nhân, khắc phục ô nhiễm môi trường…Thủ tướng Chính Phủ đã có Quyết định số 132/2000/QĐ-TTg ngày 24 tháng 11 năm 2000 về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; tiếp theo là Nghị định số 66/2006/NĐ- CP ngàt 7 tháng 7 năm 2006 của Chính phủ về phát triển ngành nghề nông thôn, trong đó đề ra những chủ trương, chính sách rất quan trọng nhằm khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề và doanh nghiệp làng nghề.

Cần có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các ngành của tỉnh và huyện, đảm bảo từ trên xuống dưới đều có sự quản lý thống nhất, có một đầu mối thực hiện chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của làng nghề. Trong hệ thống QLNN, cấp huyện là cấp quản lý trực tiếp đối với các làng nghề. Vì vậy cần tăng cường đội ngũ cán bộ có năng lực, trình độ, tăng cường bồi dưỡng kiến thức quản lý kinh tế, kinh tế thị trường, từng bước thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ, trước hết là các cán bộ cấp huyện.

Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ trong QLNN được phổ biến rộng rãi, tăng cường sử dụng công nghệ thông tin, khai thác hiệu quả internet, thiết lập hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành phục vụ tốt công tác QLNN về phát triển làng nghề truyền thống. Minh bạch các thủ tục hành chính, gọn nhẹ hơn trong việc đăng ký kinh doanh các sản phẩm làng nghề truyền thống nhằm giúp cho sản phẩm được phát triển thuận lợi, thu hút đầu tư nước ngoài.


3.2.8. Hoàn thiện hệ thống quản lý đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển làng nghề truyền thống

Trong những năm qua, do tác động của điều kiện khách quan và chủ quan, chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động sản xuất kinhh doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh sản phẩm thủ công chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Đội ngũ thợ thủ công tay nghề giỏi, nhiều kinh nghiệm ngày càng ít dần, do những nguyên nhân như: mất, tuổi quá cao không thể tham gia lao động sản xuất, một số khác chuyển nghề do tình hình kinh doanh sản phẩm thủ công gặp khó khăn. Trong khi đó, các hoạt động truyền nghề, đào tạo tay nghề cho thợ thủ công lớp kế cận chưa được đầu tư, quan tâm thích đáng. Bên cạnh đó, do yều cầu về cơ cấu tổ chức của các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong môi trường phát triển mới, trình độ của những người quản lý ở các cơ sở sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, các kiến thức, kỹ năng quản lý, phát triển thị trường cho sản phẩm còn yếu làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh sản phẩm. Trước thực trạng này, nâng cao chất lượng nhân lực của cơ sở, sản xuất kinh doanh sản phẩm thủ công là yêu cầu tất yếu và cần thiết.

Để thực hiện tốt công tác đào tạo nguồn nhân lực, cần thực hiện một số biện pháp sau:

- Cần tiếp tục nâng cao nhận thức về nghề, ngành nghề truyền thống của địa phương, Phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, địa phương trong việc đào tạo nguồn nhân lực.

- Tổ chức mở lớp dạy nghề, thực hiện các dự án cho người dân ở các xã có nghề. Trên cơ sở phát huy lợi thế của các nghề sẵn có, phát triển các làng nghề mới phù hợp với thực tế của địa phương. Các nghề mới phù hợp với tập quán của địa phương, sản phẩm sản xuất ra phù hợp với thị hiếu của thị trường, hoạt động trong các làng nghề, làng có nghề chủ yếu là hộ gia đình sản xuất trên diện tích rộng.


+ Đào tạo nghề, truyền nghề, nâng cao tay nghề sản xuất sản phẩm từ vải thổ cẩm (các nghề dệt - may - thêu - thiết kế kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm) tại các bản đã có dự án như: Bản Bó, Bản Hụm (thành phố), bản Áng, bản Nà Bai (Mộc Châu), bản Thèn Luông (Yên Châu);

+ Đào tạo nghề cho các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, HTX, tổ hợp tác nghề tiểu thủ công nghiệp theo Chương trình khuyến công tỉnh Sơn La giai đoạn 2012 -2015.

+ Nhân, cấy nghề, du nhập nghề kết hợp với nghề truyền thống: Hỗ trợ đầu tư nhân, cây nghề, du nhập nghề chế biến mây, đan mây xây dựng và phát triển làng nghề đan mây tại Mường La (đã thực hiện dự án tại huyện Phù Yên nhưng thất bại do thiếu nguyên liệu và thị trường).

- Tổ chức lại hệ thống dạy nghề phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội huyện, cải tiến nội dung, chương trình đào tạo cho sát với thực yế nhu cầu của làng nghề truyền thống. Tổ chức gặp mặt, tập huấn nhằm trao đổi kinh nghiệm giữa các đơn vị sản xuất.

- Tổ chức các lớp ngắn ngày, bồi dưỡng đội ngũ doanh nhân, tổ chức cho họ đi thăm quan, hội thảo, học hỏi kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm sản xuất sạch hơn. Khuyến khích hỗ trợ đội ngũ doanh nhân (người chủ) trực tiếp tìm thị trường, nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất…. Hàng năm tổ chức các cuộc đối thoại giữa lãnh đạo tỉnh, các ngành, UBND các cấp với chủ doanh nghiệp, để lắng nghe và giải quyết kịp thời các vướng mắc, khó khăn, tạo điều kiện cho cơ sở phát triển. Chọn các chủ cơ sở, doanh nghiệp có đủ năng lực để xây dựng, triển khai các dự án khuyến công.

- Đào tạo, bồi dưỡng nghề, cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho các cơ sở CNNT. Do nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, trong khi khả năng về trường lớp, kinh phí hỗ trợ có hạn, phải giải quyết từng bước bằng nhiều hình thức cả tại chỗ, tại trường, đào tạo ngắn hạn, dài hạn. Trước mắt từng cơ sở, từng


doanh nghiệp cần xác định số lượng, ngành nghề, trình độ cần đạt, phối hợp với tổ chức dịch vụ khuyến công có biện pháp mở lớp bồi dưỡng ngắn hạn tại cơ sở, để nhanh chóng đáp ứng nguồn nhân lực cho CNNT; đối với các nghề cơ bản cần cử đi học tại các trường.

3.3. Một số kiến nghị vĩ mô

3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ

- Xây dựng cơ chế huy động mọi nguồn vốn, tăng cường hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho hoạt động xúc tiến thương mại, đào tạo, bồi dưỡng, đổi mới ứng dụng khoa học công nghệ và phát triển sản xuất, cải tạo, xử lý môi trường tại các làng nghề.

- Xây dựng cơ chế nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ đầu tư vào lĩnh vực phát triển liên quan đến làng nghề.

3.3.2. Kiến nghị với UBND tỉnh Sơn La

Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh là cấp chính quyền trực tiếp quản lý và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh sản phẩm thủ công truyền thống tại mỗi địa phương. Từ thực trạng phát triển của ngành và những nhu cầu cho phát triển, nghiên cứu đề xuất một số kiến nghị đối với các UBND tỉnh Sơn La như sau:

- Khảo sát và xây dựng quy hoạch làng nghề trên địa bàn tỉnh, Đề án "Xây dựng và phát triển nghề, làng nghề tiểu thủ công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường tỉnh Sơn La giai đoạn 2016-2020, định hướng 2030”, trong đó nêu rõ dự toán, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho các Sở, ban, ngành của tỉnh.

- Lập bản đồ quy hoạch, đánh giá trữ lượng, chất lượng, khuyến khích việc hình thành những doanh nghiệp chuyên ngành để đầu tư công nghệ khai thác đảm bảo chất lượng nguyên liệu cung cấp cho các cơ sở sản xuất; gắn khai thác với chế biến sâu, bảo vệ môi trường, không cho phép xuất khẩu dạng thô.

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 27/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí