Quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp - 12

Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa để các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng, kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam và có thể đảm bảo bằng tài sản của các công ty mẹ ở nước ngoài.

Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI, ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp; đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

Thêm vào đó, cần bổ sung các chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực, địa bàn cần thu hút ĐTNN:

- Thực hiện chính sách thuế khuyến khích các dự án công nghệ cao, sản xuất thiết bị điện tử, viễn thông, cơ khí chế tạo, công nghiệp sản xuất phụ tùng, linh kiện; khuyến khích đẩy nhanh chương trình nội địa hóa, chuyển giao công nghệ; sử dụng các sản phẩm trung gian phục vụ xuất khẩu.

- Bổ sung các ưu đãi cao hơn đối với các dự án chế biến nông, lâm, thủy sản; đầu tư vào nông thôn và các địa bàn khó khăn, các dự án phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội như các ưu đãi về thuế, ưu đãi về sử dụng đất đai. Có chính sách hỗ trợ cần thiết để hình thành các vùng nguyên liệu tập trung, đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến xuất khẩu.

- Sử dụng các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích ĐTNN hướng mạnh vào xuất khẩu (khuyến khích chế biến sâu, sử dụng nguyên vật liệu sẵn có trong nước, tạo giái trị gia tăng cao) và khai thác thị trường xuất khẩu mởi, sản phẩm xuất khẩu mới.

- Đối với một số dự án đặc biệt quan trọng, cần xử lý đặc cách và có chính sách hỗ trợ hợp lý trong khuôn khổ những cam kết theo lộ trình hội nhập.

3. Đẩy mạnh công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội phục vụ việc thu hút vốn FDI

Quy hoạch rõ ràng, môi trường đầu tư ổn định, minh bạch, không phân biệt đối xử là một trong những yêu cầu hàng đầu của nhà đầu tư. Bởi vậy, vấn đề quy hoạch là một trong những công tác được đặt lên hàng đầu trong công tác QLNN đối với FDI. Các quy hoạch phải gắn bó với nhau và đảm bảo tính hiệu quả. Đặc biệt, quy hoạch của từng địa phương cần được xây dựng dựa trên quy hoạch vùng. Quy hoạch ngành phải gắn với quy hoạch vùng và phù hợp với các thỏa thuận và các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập.

Bộ Kế hoạch và đầu tư cần làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch sử dụng đất chi tiết, quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu. Trước hết, cần khẩn trương quy hoạch các KCN, KCX các sản phẩm quan trọng thuộc các ngành công nghiệp chế biến như: chế biến thực phẩm, dệt may; công nghiệp chế tạo như cơ khí, hóa chất, điện tử, vật liệu xây dựng,…; công nghiệp hóa lọc dầu, công nghiệp luyện kim, công nghệ thông tin. Trên cơ sở đó, xác định các dự án trong nước tự đầu tư hoặc vay vốn để đầu tư, những dự án có thể kêu gọi đầu tư theo ngành và lãnh thổ cũng như xác định yêu cầu tương ứng về công nghệ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.

Cần công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách có hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.

Các ngành cần hoàn chỉnh thêm một bước quy hoạch, phối hợp với các thành phố, địa phương xây dựng quy hoạch trên địa bàn lãnh thổ, nhằm thu hút một cách hiệu quả hơn, đảm bảo quản lý thuận tiện và khắc phục tình trạng yếu kém về cơ sở hạ tầng. Trừ một số dự án đặc thù như khai thác chế biến khoáng sản, chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu; các dự án đầu tư vào miền núi, Tây Nguyên,… cần tập trung hơn, giảm bớt tỷ lệ đầu tư phân tán. Hướng dẫn công bố rộng rãi các danh mục các ngành, lĩnh vực đầu tư vào các khu vực nói trên.

Quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp - 12

Cần quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định của Luật đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm quốc phòng an ninh.

Trong việc quy hoạch vùng lãnh thổ cần chú ý tới các điểm sau:


- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án.

- Cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù phù hợp với thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. Như vậy thì việc sử dụng nguồn vốn ĐTNN mới phát huy được tác dụng và đạt được mục đích sử dụng nguồn vốn này là phát triển kinh tế đất nước.

4. Đổi mới và đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư


Những kết quả thu hút FDI thời gian gần đây không thể thiếu vai trò của công tác xúc tiến đầu tư. Hoạt động xúc tiến đầu tư đã thu được những kết quả nhất định, góp phần xây dựng hình ảnh môi trường đầu tư hấp dẫn tại Việt Nam. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn nhiều bất cập và cần có những giải pháp hoàn thiện, đổi mới.

Cần tiếp tục tăng cường và đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư, chú trọng các đối tác chiến lược. Cùng với việc tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu về môi trường đầu tư chung tại các địa bàn và đối tác đã được nghiên cứu và xác định qua kinh nghiệm vấn đề đầu tư tại Nhật Bản vừa qua, cần tăng cường vận động trực tiếp các tập đoàn lớn đầu tư vào các dự án cụ thể. Bên cạnh đó, tổ chức các cuộc hội thảo chuyên ngành, hoặc lĩnh vực tại các địa bàn có thế mạnh với sự tham gia của các cơ quan chuyên ngành.

Cần xây dựng bộ máy cơ quan XTĐT chuyên nghiệp từ trung ương tới địa phương, với tư cách là bộ phận cung cấp dịch vụ cho nhà đầu tư. Cần xác lập cơ chế trao đổi, phối hợp giữa cơ quan XTĐT ở trung ương với địa phương và giữa các địa

phương với nhau. Bên cạnh đó, tăng cường hợp tác giữa cơ quan XTĐT trong nước với bộ phận XTĐT vủa Việt Nam tại nước ngoài.

Kết hợp với các chuyến đi thăm, làm việc nước ngoài của các nhà lãnh đạo Đảng, Chính phủ để tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu môi trường đầu tư, mời các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước phát biểu tại các cuộc hội thảo nhằm xây dựng hình ảnh tốt về sự quan tâm của Chính phủ đối với ĐTNN.

Công tác vận động xúc tiến đầu tư cũng cần được đổi mới trên cơ sở đa dạng hóa các phương thức xúc tiến đầu tư. Nâng cao chất lượng thông tin, ấn phẩm tuyên truyền về đầu tư, đổi mới các phương pháp trình bày tại các hội thảo, các phương tiện nghe nhìn nhằm thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư... Nâng cấp trang thông tin website về ĐTNN. Biên soạn lại các tài liệu giới thiệu về ĐTNN (guidebook, in tờ gấp giới thiệu về cơ quan quản lý đầu tư, cập nhật các thông tin về chính sách, pháp luật liên quan đến ĐTNN).

Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gian thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,...; chú trọng và đẩy nhanh tiến độ đàm phán các Hiệp định đầu tư song phương giữ Việt Nam và các đối tác lớn.

Xây dựng văn bản pháp quy về công tác Xúc tiến đầu tư nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất trong công tác QLNN, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư.

Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư. Vận động và phối hợp các tổ chức quốc tế hỗ trợ mở các lớp đào tạo về xúc tiến quản lý ĐTNN, tiếp tục kết hợp các hoạt động xúc tiến đầu tư với các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh đạo cấp cao Đảng, Quốc hội, Chính phủ nhằm quảng bá môi trường đầu tư Việt Nam. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư – thương mại – du lịch; khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch.

5. Nâng cao năng lực của cán bộ làm công tác quản lý FDI

Trong bất kỳ lĩnh vực nào, yếu tố con người bao giờ cũng quyết định đến mức độ thành công của hoạt động. Hiện nay, trình độ của đội ngũ cán bộ QLNN đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, cần chú trọng công tác bồi dường năng lực cho đội ngũ cán bộ.

Trước hết là về năng lực công tác. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức Nhà nước, và công nhân kỹ thuật. Theo đó, xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dự án cả về kiến thức phát luật, các quy trình thu hút, sử dụng nguồn vốn ODA cả về ngoại ngữ và các kiến thức quản lý dự án theo các chuẩn mực quốc tế. Chuyên môn hoá các Ban quản lý dự án và giảm tình trạng cán bộ kiêm nhiệm. Các ban quản lý dự án chú trọng hơn đến hình thức đào tạo tại chỗ: bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ thông thạo chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, kinh nghiệm quản lý hiện đại…Công tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực nghiệp vụ cho cán bộ quản lý dự án phải phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế, nhất là trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện này. Song song với việc đào tạo kiến thức cơ bản cần tạo điều kiện cho cán bộ quản lý nghiên cứu về kinh tế thị trường và các kiến thức liên quan như thị trường vốn, thị trường xây dựng, thị trường bất động sản,... Cần xây dựng các cơ chế thích hợp, tạo điều kiện để cán bộ các ngành tham dự các khoá đào tạo chuyên sâu, tập huấn, tham quan khảo sát chuyên đề ở nước ngoài, học hỏi các kinh nghiệm phục vụ ứng dụng vào thực tế của thành phố. Trao đổi cán bộ giữa các ban quản lý dự án, cũng là hình thức để học hỏi kinh nghiệm quản lý và thực hiện dự án.

Thứ hai là về phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Các cán bộ QLNN cần phải tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm công việc, nâng cao tính tự trọng và tự hào nghề nghiệp. Có như vậy, xử lý công viêc mới hiệu quả hơn, khắc phục được tư tưởng ỷ lại, trông chờ, tạo ra chuyển biến tích cực trong quản lý.

Nhà nước cũng cần quan tâm nhiều hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong công tác, đồng thời phải căn cứ vào kết quả công tác của họ để có chế độ đãi ngộ đối xử công bằng, trả lương thỏa đáng theo chức năng, nhiệm vụ dựa trên kết quả và chất lượng công việc của cán bộ quản lý dự án.


KẾT LUẬN

Thu hút FDI là tất yếu khách quan trong quá trình phát triển kinh tế của tất cả các quốc gia trên thế giới, nhất là trong xu hướng hội nhập kinh tế toàn cầu như hiện nay. Tuy nhiên, việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI một cách có hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào chính sách QLNN đối với FDI của mỗi quốc gia.

Việt Nam tuy là nước đi sau trong lĩnh vực thu hút FDI so với nhiều nước khác trên thế giới nhưng cũng đã bước đầu xây dựng được một hệ thống quản lý FDI bao gồm các công cụ quản lý, các hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách và cách thức quản lý dành riêng cho hình thức đầu tư này. Hệ thống QLNN đối với FDI của nước ta đã đạt được những kết quả nhất định, thể hiện qua những thành tựu đáng kể mà nguồn vốn FDI đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Nhờ có các công cụ quản lý của Nhà nước đối với FDI, môi trường đầu tư đã được cải thiện đáng kể, có sức hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN, tạo ra những thành công lớn trong hoạt động thu hút FDI. Những thành tựu đạt được trong hoạt động này, đến lượt nó, đã có ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu kinh tế xã hội của công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, tăng cường thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như bối cảnh kinh tế vĩ mô của đất nước có nhiều biến động, sự tăng trưởng mạnh mẽ, mang tính đột biến của nguồn vốn FDI vào Việt Nam trong thời gian qua đã làm cho những mặt hạn chế vốn có nhưng chưa hoặc chậm được khắc phục của hệ thống QLNN ngày càng bộc lộ rõ nét và trở nên gay gắt hơn. Đó là những hạn chế trong công tác hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách; công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng; công tác xúc tiến đầu tư;… Những hạn chế đó cần phải được khắc phục triệt để, đặc biệt trong hoàn cảnh Việt Nam ngày càng tham gia nhiều hơn vào các hiệp định song phương, khu vực và đa phương cũng như các diễn đàn, các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới để có thể phù hợp với yêu cầu của các tổ chức quốc tế cũng như “luật chơi chung” của thế giới.

Để có thể tiếp tục quá trình hoàn thiện công tác QLNN đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài một cách có hiệu quả, trước hết cần phải đánh giá lại thực trạng quản lý trong thời gian qua bên cạnh đó cũng cần nhận định rõ bối cảnh, tình hình trong nước cũng như thế giới; phải nhất quán các quan điểm, nguyên tắc của Đảng và Nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập đầu tư quốc tế nói riêng; đồng thời nắm vững các mục tiêu, yêu cầu đặt ra đối với hoạt động thu hút FDI cũng như hội nhập đầu tư quốc tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Tiếng Việt


1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2003), “Chính sách đầu tư nước ngoài trong tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế” , tài liệu Hội Thảo quốc tế về “Việt Nam sẵn sàng gia nhập WTO”, tháng 6/2003 tại Hà nội.

2. Bộ Kế hoạh và Đầu tư (2003), Report on FDI implementation in 2003.

3. Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

4. Đoàn Ngọc Phúc (2004), Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam – Thực trạng, những vấn đề đặt ra và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 315/2004, Hà nội, Việt Nam

5. Đỗ Hoàng Toàn (2008), Quản lý Nhà nước về kinh tế, Nhà xuất bản ĐH Kinh tế quốc dân, Hà Nôi.

6. Đỗ Thị Thìn (2003), Chính sách thuế đối với hoạt động đầu tư trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Tài chính.

7. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam các năm 1987, 1996, 2000.

8. Luật đầu tư 2005 số 59/2005/QH1 ban hành ngày 29/11/2005.

9. Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của người nước ngoài ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.

10. Ngô Thu Hà (2007), Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam và tiến trình hội nhập quốc tế về đầu tư.

11. Nghị định 108/2006/CP-NĐ ban hành ngày 22/9/2006.

12. Nguyễn Thị Hường và Bùi Huy Nhượng (2003), Những bài học rút ra qua so sánh tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 68-2003.

13. Nguyễn Văn Hoa và Nguyễn Văn Long (1997), Cẩm nang xuất nhập khẩu trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài ( FDI ) ở Việt Nam , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.

Xem tất cả 108 trang.

Ngày đăng: 09/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí