PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thương mại điện tử (TMĐT) là việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào lĩnh vực hoạt động thương mại. Với những ưu thế nổi bật như nhanh hơn, rẻ hơn, tiện dụng hơn, hiệu quả hơn, không bị giới hạn bởi không gian và thời gian…vv. sự ra đời của phương thức thương mại này đã và đang thay thế dần phương thức bán hàng truyền thống.
Sự phát triển của TMĐT trên thế giới đã làm thay đổi phương thức kinh doanh, thay đổi mạnh mẽ các giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam việc ứng dụng TMĐT vào hoạt động sản xuất kinh doanh đã làm tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển TMĐT ở Việt Nam, Nhà nước với vai trò là chủ thể quản lý đã tạo ra những ra những tiền đề cơ bản cho việc ứng dụng và triển khai TMĐT trong các doanh nghiệp. Bằng các công cụ quản lý của mình, Nhà nước đã đóng vai trò định hướng, tạo lập môi trường cho sự phát triển của TMĐT. Cụ thể như trong các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT. Tuy nhiên từ quá trình triển khai TMĐT trong thời gian vừa qua cho thấy tuy môi trường cho sự phát triển của các hoạt động bán hàng qua các sàn TMĐT ở Việt Nam đã hình thành nhưng vẫn chưa đáp ứng được cho sự phát triển có hiệu quả của TMĐT. Hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT hiện nay còn tồn tại một số bất cập chủ yếu sau: thiếu các định hướng chiến lược trong phát triển; pháp luật về TMĐT chưa điều chỉnh hết nhiều lĩnh vực mới nảy sinh trong TMĐT; sự phối hợp quản lý nhà nước về TMĐT giữa các cơ quan QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn TMĐT chưa hiệu quả; niềm tin của người tiêu dùng đối với TMĐT còn thấp; nguồn nhân lực cho TMĐT còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; hoạt động kiểm tra, giám sát TMĐT chưa được chú trọng. Bên cạnh đó, sự phát triển không ngừng trong lĩnh vực công nghệ thông tin nói chung và TMĐT nói riêng trên thế giới sẽ tạo ra những thách thức không nhỏ cho việc thực hiện các chức năng QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam.
Với những yêu cầu trên, QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT trong thời gian tới cần phải tiếp tục được hoàn thiện cả về mặt lý luận và thực tế triển khai thực hiện. Để có cơ sở hoàn thiện các nội dung này, hoạt động QLNN đối với
các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT cần phải được củng cố về mặt lý luận như: làm rõ mục tiêu, nội dung, các nguyên tắc, yêu cầu cũng như các công cụ mà Nhà nước có thể sử dụng trong quá trình thực hiện chức năng QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT. Ngoài ra để khắc phục các bất cập trong hoạt động QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt nam hiện nay thì hoạt động QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn TMĐT cần phải được đánh giá một cách toàn diện để tìm ra những bất cập còn tồn tại cũng như nguyên nhân của các hạn chế này.
Xuất phát từ tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn trên, vấn đề "Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử" là cần thiết có có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện lý luận QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT cũng như hoàn thiện các nội dung QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam.
2. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
- Xuất phát từ tính cấp thiết từ lý luận và thực tiễn trên, tác giả xin chọn đề tài: “Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam”
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam - 1
- Bảng Xếp Hạng Các Doanh Nghiệp Thương Mại Điện Tử Hàng Đầu Tại Vn Q3/2021
- Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Đối Với Hoạt Động Bán Hàng Qua Các Sàn Giao Dịch Tmđt
- Quy Mô Thị Trường Tmđt Bán Lẻ Tại Việt Nam (2016-2020)
Xem toàn bộ 79 trang tài liệu này.
- Đề tài giải quyết những vấn đề nghiên cứu sau:
TMĐT là gì? Các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT diễn ra như thế nào? Tại sao phải quản lý nhà nước về các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT? Thực trạng hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử hiện nay? Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2016-2021 như thế nào? Cần có những giải pháp gì để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam?
3. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung
Nhằm làm rõ những lý luận về QLNN về hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT, đánh giá đầy đủ, trung thực và khách quan về thực trạng QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT trong thời gian qua. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể:
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, khóa luận đặt ra những mục tiêu cụ thể sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam.
+ Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam từ năm 2016-2021.
+ Đề xuất định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu: Đối với hoạt động QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT, khóa luận tập trung nghiên cứu các nội dung QLNN về các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt nam theo hướng tiếp cận từ quá trình quản lý, các nội dung này bao gồm: (i) Xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển; (ii) Xây dựng chính sách và ban hành pháp luật; (iii) Tổ chức thực hiện kế hoạch và chính sách phát triển; (iv) Kiểm soát các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT. Đây là cách tiếp cận phổ biến trong các nghiên cứu về hoạt động QLNN nói chung, QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT nói riêng.
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2016 – 2021. Đề xuất định hướng và giải pháp của QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT ở Việt Nam đến năm 2025
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Mặc dù trong thực tế, các hoạt động bán hàng qua các sàn TMĐT có phạm vi không gian vượt qua biên giới của một nước. Tuy nhiên, khóa luận chỉ nghiên cứu công tác QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn TMĐT của các doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để thẩm định, giải quyết những vấn đề còn tranh cãi, chưa có sự thống nhất. Phân tích tổng hợp giúp ta tìm ra những lỗ hổng của các nghiên cứu trước, những lĩnh vực nào cần phải nghiên cứu hoặc chứng minh thêm.
Thông thường phân tích tổng hợp là hai quá trình của một vấn đề, chúng không thể tách rời nhau mà hợp lại để bổ trợ cho nhau. Phân tích là giai đoạn cần thiết của bất kì một quá trình nghiên cứu nào. Tổng hợp là việc xác định những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cũng như những quy luật tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT. Tổng hợp có được nhờ những kết quả nghiên cứu phân tích, sau đó kết hợp chúng lại với nhau thành một chỉnh thể hoàn chỉnh, thống nhất.
5. Kết cấu khóa luận
Ngoài các phần tóm lược, lời cảm ơn, mục lục, danh mục bảng biểu, danh mục từ viết tắt, lời mở đầu và tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu của khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử.
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Các đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử.
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG QUA CÁC SÀN GIAO DỊCH THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm thương mại điện tử
Quá trình phát triển của TMĐT gắn liền với sự phát triển của CNTT và internet. Bắt đầu từ năm 1995 khi thuật ngữ "electronic-commerce" được hãng máy tính IBM (International Business Machines) sử dụng thì những nghiên cứu về TMĐT mới chính thức được bắt đầu.
Theo Emmanuel Lallana, Rudy Quimbo, Zorayda Ruth Andam, (ePrimer: Giới thiệu về TMĐT, Philippines: DAI-AGILE, 2000) “TMĐT là việc sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử và công nghệ xử lý thông tin số trong giao dịch kinh doanh nhằm tạo ra, chuyển tải và định nghĩa lại mối quan hệ để tạo ra các giá trị giữa các tổ chức và giữa các tổ chức và các nhân”. Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT: “TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng văn bản, âm thanh và hình ảnh”.
Theo Anita Rosen, (Hỏi và đáp về TMĐT USA: American Management Association, 2000), “TMĐT bao hàm một loạt hoạt động kinh doanh trên mạng đối với các sản phẩm và dịch vụ” hoặc
Thomas L. (Mesenbourg, Kinh doanh điện tử: Định nghĩa, khái niệm và kế hoạch thực hiện), đưa ra định nghĩa “TMĐT thường đồng nghĩa với việc mua và bán qua Internet, hoặc tiến hành bất cứ giao dịch nào liên quan đến việc chuyển đổi quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ qua mạng máy tính”. Định nghĩa này chỉ bó hẹp cho những giao dịch qua mạng máy tính hoặc mạng Internet.
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc (OECD) đưa ra định nghĩa TMĐT: “TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet”.
Tổ chức Thương mại thế giới WTO định nghĩa: “TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giaonhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet”.
Theo giáo trình Thương mại điện tử căn bản( PGS. TS. Nguyễn Văn Minh, 2011):
„TMĐT là việc tiến hành các giao dịch thương mại thông qua mạng Internet, các mạng truyền thông và các phương tiện điện tử khác”
Qua nghiên cứu các khái niệm về TMĐT cùng với mục tiêu là hoàn thiện QLNN đối với các hoạt động bán hàng qua các sàn TMĐT nên khóa luận sử dụng khái niệm TMĐT theo nghĩa: TMĐT là việc tiến hành một khâu hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động kinh doanh bằng các phương tiện điện tử có kết nối với mạng Internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.
1.1.2. Sàn giao dịch TMĐT
Nhà nước ta đã quy định khái niệm sàn thương mại điện tử rất rõ ràng tại khoản 2 Điều 2 Thông tư 46/2010/TT-BCT: “ Sàn giao dịch thương mại điện tử là website thương mại điện tử cho phép các thương nhân, tổ chức, cá nhân không phải chủ sở hữu hoặc người quản lý website có thể tiến hành bán hàng hoặc cung ứng các dịch vụ trên đó”. Tức là trên cùng một website người dùng có thể tiến hành trao đổi, buôn bán trực tuyến nhằm đặt được mong muốn của bản thân. Thông qua đó kết nối người tiêu dùng với các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức.
Không chỉ là nơi tiến hành trao đổi hàng hóa, sàn giao dịch điện tử còn là thế giới trưng bày, giới thiệu sản phẩm, thương hiệu của các tổ chức, doanh nghiệp để người dùng biết đến. Đồng thời nơi đây còn là nơi đăng tải các thông tin rao vặt hữu ích, thực hiện các giao dịch qua mạng Internet, đấu giá, đấu thầu, hợp tác, thiết kế và rất nhiều các chức năng khác
1.1.3. Hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử
Có thể hiểu đây là loại hình dịch vụ, chuyên kinh doanh buôn bán các sản phẩm nhưng lại diễn ra chủ yếu thông qua mạng Internet, mà khi đó cả người mua và người bán đều sử dụng các thiết bị số như điện thoại thông minh, máy tính, được liên kết với nhau thông qua mạng Internet.
Đối với hình thức bán hàng qua các sàn TMĐT, Người bán chỉ cần đăng ký một tài khoản bán hàng và cam kết theo chính sách trên chợ điện tử thế là bạn đã có ngay một gian hàng cho mình. Tiếp đó là các bước bày bán sản phẩm của mình thông qua việc nhập thông tin sản phẩm, giá bán kèm với hình ảnh minh họa. Người mua sẽ không cần phải đi đến trực tiếp cửa hàng mà vẫn có thể dễ dàng xem hàng và sở hữu sản phẩm một cách tiện lợi, và ngược lại người bán cũng không cần phải có mặt bằng cửa hàng mà vẫn có thể dễ dàng tiếp cận, hay trao đổi những thông tin, hàng hóa cho người mua.
Một kênh bán hàng trực tuyến được nhiều người bán hàng, chủ shop bán hàng hay các doanh nghiệp, công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh hàng hóa, sản phẩm hàng hóa ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất.
Đây là một trong những hình thức kinh doanh online phổ biến nhất hiện nay, là biểu tượng của cuộc cách mạng công nghiệp hiện đại. Các nền tảng thương mại điện tử ra đời như một giải pháp hữu ích và thiết thực cho người tiêu dùng. Tạo môi trường giao dịch, mua bán trực tuyến thuận tiện cho cả người bán và người mua.
Các sàn giao dịch thương mại điện tử này đã trở nên phổ biến ở nhiều nước hiện nay như Mỹ, Anh, Pháp và bắt đầu trở nên rất phổ biến ở các nước Đông Nam Á trong những năm gần đây.
1.1.4. Khái niệm QLNN về bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử
Sự phát triển của TMĐT là kết quả tất yếu của quá trình "số hóa" các hoạt động thương mại trong nền kinh tế, trong đó các phương tiện điện tử được sử dụng như một công cụ để thực hiện các hoạt động thương mại trên môi trường điện tử. Như vậy, bản chất của khái niệm "thương mại" trong TMĐT cũng tương tự như khái niệm thương mại của hoạt động thương mại truyền thống. Theo Luật Thương mại, "hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác".
Như vậy, QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT chính là hoạt động QLNN về thương mại, quản lý các hoạt động bán hàng của chủ thể quản lý gắn liền với các đặc trưng của các hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử. Với quan điểm này, QLNN đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT được hiểu là quá trình nhà nước sử dụng các công cụ quản lý để tác động lên các hoạt động bán hàng trong môi trường điện tử, nhằm đạt được các mục tiêu phát triển thương mại điện tử đã đặt ra.
1.2. Một số lý thuyết về hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch thương mại điện tử
1.2.1. Một số đặc điểm của hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT
So với các hoạt động thương mại truyền thống, hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT có một số điểm khác biệt cơ bản sau:
Các bên tiến hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.
Trong thương mại truyền thống, các bên thường gặp nhau trực tiếp để tiến hành giao dịch. Các giao dịch được thực hiện chủ yếu theo nguyên tắc vật lý như chuyển tiền, séc hóa đơn, vận đơn, gửi báo cáo. Các phương tiện viễn thông như: fax, telex, ... chỉ được sử dụng để trao đổi số liệu kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các phương tiện điện tử trong thương mại truyền thống chỉ để chuyển tải thông tin một cách trực tiếp giữ hai đối tác của cùng một giao dịch
TMĐT cho phép mọi người cùng tham gia từ các vùng xa xôi hẻo lánh đến các khu vực đô thị lớn, tạo điều kiện cho tất cả mọi người ở khắp nơi đều có cơ hội ngang nhau tham gia vào thị trường giao dịch toàn cầu và không đòi hỏi nhất thiết phải quen biết với nhau.
Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của khái niệm biên giới quốc gia, còn TMĐT được thực hiện trong một thị trường không có biên giới (thị trường thống nhất toàn cầu).
Thị trường trong TMĐT là thị trường phi biên giới. Điều này thể hiện ở chỗ mọi người ở tất cả các quốc gia trên khắp toàn cầu không phải di chuyển tới bất kỳ địa điểm nào mà vẫn có thể tham gia và tiến hành giao dịch TMĐT bằng cách truy cập vào website TMĐT hoặc vào các trang mạng xã hội.
Trong hoạt động giao dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể, trong đó có một bên không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực.
Trong TMĐT, ngoài các chủ thể tham gia quan hệ giao dịch giống như giao dịch thương mại truyền thống đã xuất hiện một bên thứ ba đó là nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực… là những người tạo môi trường cho các giao dịch TMĐT. Nhà cung cấp dịch vụ mạng và cơ quan chứng thực có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch TMĐT, đồng thời họ cũng xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch TMĐT.
Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với hoạt động bán hàng qua các sàn giao dịch TMĐT thì mạng lưới thông tin là thị trường. Thông qua TMĐT, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành.
Ví dụ: các dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian ảo là các dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính. Các trang Web khá nổi