Là người có đủ các tiêu chuẩn theo quy định tại Điều lệ trường mầm non, không quá 65 tuổi; không là công chức, viên chức trong biên chế nhà nước.
Là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động của trường; chịu trách nhiệm trước pháp luật, cơ quan quản lý giáo dục và Hội đồng quản trị (nếu có). Nhiệm kỳ của Hiệu trưởng là 05 năm.
Với trường mầm non tư thục có Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng do Hội đồng quản trị đề cử và bầu cử theo nguyên tắc bỏ phiếu kín với trên 50% số phiếu tán thành; được Đại hội đồng thành viên góp vốn thông qua và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ra quyết định công nhận.
Tiêu chuẩn của giáo viên, nhân viên: Phải có đủ các tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và sức khỏe theo quy định của Luật Giáo dục và Điều lệ trường mầm non.
1.2.3.4. Quản lý chương trình giáo dục
Chương trình giáo dục là văn bản chính thức, quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu nội dung kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp, thực tập theo từng năm học, tỉ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành, quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục
Chương trình giáo dục đào tạo do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành cho từng cấp học, bậc học, ngành đào tạo. Chương trình này cung cấp những nội dung cốt lõi, chuẩn mực, tương đối ổn định theo thời gian và bắt buộc các trường phải thực hiện (chương trình khung)
Từ chương trình khung giáo dục mầm non, mỗi trường tự xây dựng và phát triển chương trình giáo dục cụ thể phù hợp với điều kiện thực tế của trường mình nhưng phải đảm bảo thực hiện được mục tiêu đã đề ra.
Ví dụ: Từ chương trình khung giáo dục - đào tạo giáo viên mầm non trình độ cao đẳng do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, trường CĐSP TW sẽ tự nghiên cứu xây dựng chương trình cụ thể (hay còn gọi là đề cương chi tiết) cho trường mình sao cho phù hợp với điều kiện thực tế của trường mình, chứa đựng triết lý riêng của trường.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục mầm non tư thục trên địa bàn huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Các Cơ Sởgiáo Dục Mầm Non Tư Thục Cấp Huyện
- Nội Dung Quản Lý Nhà Nước Đối Với Các Cơ Sở Giáo Dục Mầm Non Tư Thục
- Bài Học Rút Ra Cho Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An
- Khái Quát Về Thực Trạng Các Cơ Sở Giáo Dục Mầm Non Tư Thục Trên Địa Bàn Huyện Diễn Châu, Tỉnh Nghệ An
- Đánh Giá Của Cbql Và Giáo Viên Về Công Tác Thể Chế Hóa Các Chủ Trương, Chính Sách Qlnn Đối Với Cơ Sở Gdmn Tư Thục Ở Huyện Diễn Châu
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Chương trình giáo dục mầm non được xây dựng theo quan điểm giáo dục tích hợp, lấy trẻ làm trung tâm, đảm bảo nguyên tắc đồng tâm phát triển, tạo điều kiện cho mỗi trẻ được hoạt động tích cực, đáp ứng nhu cầu và hứng thú của trẻ trong quá trình chăm sóc, giáo dục. Từ chương trình khung này từng địa phương và từng trường sẽ xác định nội dung, phương pháp, hình thức… phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, trường lớp và nhu cầu khác nhau nhau của từng trẻ…quản lý về chương trình giáo dục tại các cơ sở giáo dục mầm non tư thục sẽ do phòng Giáo dục và Đào tạo của huyện chịu trách nhiệm quản lý.
1.2.4. Thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ sở giáo dục mầm non tư thục
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là một trong những khâu quan trọng của QLNN về GDMN và QLNN đối với các cơ sở GDMN tu thục. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát là hoạt động thường xuyên, đóng vai trò quan trọng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước góp phần tăng cường, củng cố pháp chế, kỷ luật trong quản lý nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, trong quản lý GDMN nói chung, QLNN đối với các cơ sở GDMN tư thục nói riêng cần tập trung theo những hướng sau:
Một là, tăng cường tính chuyên nghiệp trong hoạt động thanh tra
Theo Luật Thanh tra 2010 để đạt được mục đích thanh tra “nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Hai là, chuyển mạnh từ thanh tra nặng về chuyên môn giáo dục sang thanh tra quản lý.
Cụ thể là thực hiện việc thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành giáo dục theo quy định. Không thực hiện thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo một
cách độc lập, tránh chồng chéo với việc đánh giá nhà giáo theo chuẩn nghề nghiệp hàng năm.
Ba là, tăng cường tự thanh tra, kiểm tra đi đôi với tăng quyền tự chủ tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục.
Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở GD&ĐT và các cơ quan thanh tra nhà nước có thẩm quyền thanh tra trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở giáo dục.
Bốn là, tăng cường phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan có thẩm quyền thanh tra theo phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục.
Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thụccó trách nhiệm thường xuyên thực hiện việc tự kiểm tra các hoạt động theo quy định hiện hành.
Cơ quan quản lý giáo dục có trách nhiệm kiểm tra, kiểm định chất lượng, thanh tra theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quy chế tổ chức và hoạt động của trường mầm non tư thục và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo Luật Khiếu nại tố cáo và Pháp lệnh Thanh tra.
Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục không được phép cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào lợi dụng danh nghĩa, sử dụng cơ sở của nhà trường nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo để tiến hành các hoạt động trái với pháp luật và thực hiện các hành vi thương mại hóa hoạt động giáo dục, vụ lợi, không đúng với mục tiêu đề án hoạt động của nhà trường.
Hoạt động thực hiện kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước bao gồm: Thanh tra giáo dục; Kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện kỷ cương, luật pháp trong tiêu cực, vi phạm pháp luật về giáo dục đào tạo đồng thời bảo vệ lợi ích của người đi học và của các cơ sở giáo dục đào tạo.
Trong quá trình QLNN thì không thể thiếu được hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát để đảm bảo các cơ sở GDMN tuân thủ các quy định của pháp luật, Bộ GD&ĐT đã yêu cầu của các Sở GD&ĐT chỉ đạo Phòng GD&ĐT các quận phối hợp với UBND phường tiến hành kiểm tra, rà soát tất cả các cơ sở giáo dục mầm non Tư thục, đặc biệt là các nhóm tư thục độc lập đang hoạt động trên địa bàn; công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và thông báo để nhân dân
địa phương biết được về các nhóm tư thục độc lập đã được cấp phép, chưa được cấp phép hoặc bị đình chỉ hoạt động trên địa bàn để phụ huynh biết, lựa chọn trường, lớp.
Bên cạnh đó đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức, kĩ năng chăm sóc, giáo dục trẻ cho các bậc cha mẹ và cộng đồng. Phát huy vai trò của nhân dân trong việc giám sát, phát hiện các nhóm lớp tư thục độc lập hoạt động trái quy định, không đảm bảo an toàn cho trẻ, đề nghị chính quyền địa phương xử lý theo quy định. Sở GD&ĐT tham mưu UBND thành phố chỉ đạo UBND các quận, huyện tăng cường các biện pháp quản lý, chỉ đạo đối với các cơ sở giáo dục mầm non Tư thục; thực hiện tốt việc phân cấp quản lý giáo dục tại địa phương; chỉ đạo quy hoạch xây dựng các cơ sở giáo dục mầm non tại các khu đô thị, khu công nghiệp, khu đông dân cư, các làng nghề.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục mầm non tư thục
1.3.1. Các văn bản pháp luật và chính sách của nhà nước
Muốn thực hiện tốt QLNN đối với GDMN nói chung, các cơ sở GDMN tư thục nói riêng, các cấp lãnh đạo, nhất là cơ quan QLNN trực tiếp đối với hoạt động này cần nắm vững quyền hạn, nghĩa vụ quản lý của mình để từ đó thực hiện quản lý đúng theo yêu cầu của pháp luật hiện hành.
Cơ quan quản lý hướng dẫn, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển giáo dục ở địa phương, các cơ chế, chính sách về xã hội hóa giáo dục sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển giáo dục trên địa bàn; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về giáo dục.
Có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức các cơ sở giáo dục thuộc thẩm quyền quản lý sau khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; Tổ chức ứng dụng các kinh nghiệm, thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, tổng kết kinh nghiệm, sáng kiến của địa phương trong lĩnh vực giáo dục; Tổ chức thực hiện công tác xây dựng và nhân điển hình tiên tiến,
công tác thi đua, khen thưởng về giáo dục trên địa bàn huyện; phối hợp với Phòng Nội vụ hướng dẫn các cơ sở giáo dục về công tác tuyển dụng, sử dụng đội ngũ; phối hợp với Phòng Tài chính - Kế hoạch kiểm tra, hướng dẫn các cơ sở giáo dục các vấn đề liên quan đến kinh phí; thực hiện cải cách hành chính, công tác thực hành, tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí; công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị có liên quan đến giáo dục và xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật; quản lý tài chính, tài sản, cơ sở vật chất được giao theo quy định của pháp luật và của UBND cấp huyện; thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch UBND cấp huyện giao; thực hiện chế độ thông tin, báo cáo kịp thời cho Sở GD&ĐT và UBND cấp huyện. Căn cứ theo chức năng nhiệm vụ Phòng GD&ĐT cụ thể hóa công tác XHH vào triển khai nhiệm vụ thường niên của mình.
1.3.2. Ý thức tuân thủ pháp luật của các nhà đầu tư tham gia xã hội hóa giáo dục
Xã hội hóa giáo dục là thực hiện mối liên hệ có tính phổ biến, có tính qui luật giữa cộng đồng với xã hội. Thiết lập được mối quan hệ này là làm cho giáo dục phù hợp với sự phát triển xã hội: “Mỗi người dân đều nhận thấy đó là trách nhiệm của mình, nên đều tự nguyện và tích cực phối hợp hành động thực hiện, đồng thời chính họ là người hưởng thụ mọi thành quả của hoạt động đó đem lại”.
Xã hội hóa giáo dục có hai vế: mọi người có nghĩa vụ chăm lo phát triển giáo dục để giáo dục phục vụ cho mọi người. Được học tập, học tập thường xuyên, học suốt đời, học để biết cách sống trong cộng đồng và lao động để tồn tại và phát triển. Hai vế này nêu rõ hai yêu cầu của xã hội hóa giáo dục là: phải xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục và xã hội hóa quyền lợi về giáo dục. Hai yêu cầu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau và thực hiện liên kết hợp đồng với nhau. Trong đó yêu cầu về xã hội hóa quyền lợi về giáo dục là đỉnh cao, là mục tiêu, là cốt lõi của xã hội hóa giáo dục; phải làm cho toàn xã hội đều được học tập, tiến tới xây dựng một xã hội học tập. Nếu chỉ nghiêng về xã hội hóa trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi người đối với giáo dục là đi chệch hướng với bản chất một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân.
Việc nâng cao nhận thức trong nhân dân về vai trò của giáo dục vì chỉ khi nhân dân hiểu về giáo dục, đồng tình với giáo dục, cùng chia sẽ khó khăn, cộng đồng trách nhiệm thì bản thân xã hội của giáo dục mới được phát huy và hiệu quả giáo dục mới đạt tới như mong muốn. Tăng cường tuyên truyền công tác XHHGD là sự khơi dậy và phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng đạo lý, đề cao sự học, đề cao giá trị của học vấn... của mỗi gia tộc, dòng họ; niềm tin của cá nhân vào sự nghiệp phát triển chung của giáo dục, của từng nhà trường để có thể huy động nhiều nguồn lực khác nhau chăm lo cho sự nghiệp giáo dục.
1.3.3. Hoạt động giám sát của phụ huynh học sinh
Thực hiện công tác giáo dục chúng ta thấy có sáu nhóm đối tượng có thể huy động tham gia XHHGD,( Tài trợ giá dục) gồm: Lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp (lực lượng quan trọng quyết định sự đầu tư cơ sở vật chất cho nhà trường và cũng là lực lượng tạo cơ chế và tạo điều kiện cho việc XHHGD triển khai thuận lợi); Gia đình, cha mẹ học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh (lực lượng có nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích trực tiếp cùng chia sẻ với nhà trường và cũng là lực lượng quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với học sinh); Các cơ quan, ban ngành (nhất là các ngành có chức năng, có trách nhiệm đối với nhà trường như y tế, công an, bảo vệ, Ủy ban Bảo vệ chăm sóc trẻ em, các tổ chức đoàn thể như Mặt trận Tổ quốc, Hội Cựu chiến binh, Hội Khuyến học, các tổ chức tôn giáo, tổ chức từ thiện,…); Các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ tạo khả năng liên kết trong việc huy động các nguồn lực vật chất; Bản thân ngành giáo dục đào tạo cũng là một đối tượng để XHHGD; Các tổ chức quốc tế, các cá nhân, đặc biệt là cá nhân có uy tín, các “mạnh thường quân”. Nhà trường là đơn vị chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan để phát huy, tận dụng tối đa nguồn nhân lực này.
Việc thực hiện liên kết các lực lượng xã hội hưởng ứng tích cực và đóng góp, ủng hộ, tham gia xây dựng môi trường nhà trường từ cơ sở hạ tầng, cảnh quan, nền nếp giáo dục chăm sóc trẻ đến các mối quan hệ nhà trường, để nhà trường thực sự trở thành trung tâm văn hoá, môi trường giáo dục lành mạnh.Cùng với mục đích tăng cường thêm cơ sở vật chất, các điều kiện phục vụ dạy và học nhằm nâng cao
chất lượng dạy và học, các trường quan tâm tới việc huy động sự đóng góp tài chính, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng kinh tế, các nhà hảo tâm, các tổ chức…tới các hoạt động giáo dục. Để làm được việc này, cần tranh thủ những mối quan hệ, tìm hiểu về các đối tác để có cơ hội trao đổi với họ về kế hoạch phát triển của nhà trường qua đó sẽ kêu gọi sự ủng hộ, giúp đỡ của họ cho các vấn đề liên quan đến giáo dục của nhà trường. Các hình thức phối hợp làm công tác XHHGD cũng có những khía cạnh, mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào sự tự nguyện, tự giác, khả năng của các lực lượng xã hội và tính chất của từng hoạt động xã hội. Muốn thực hiện được các mục tiêu trên một cách bền vững, cần tang cường vai trò giám sát và yêu cầu đảm bảo chất lượng cung ứng dịch vụ của phụ huynh học sinh.
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục mầm non tư thục ở một số địa phương và bài học rút ra cho huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An
1.4.1. Kinh nghiệm của một số địa phương đối với quản lý nhà nước đối với các cơ sở giáo dục mầm non tư thục
1.4.1.1. Kinh nghiệm của huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Trong những năm từ 2015 đến 2019, với sự tham gia của các lực lượng xã hội vào quá trình đa dạng hóa các hình thức học tập và các loại hình cơ sở GDMN trên địa bàn huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội đã góp phần làm cho mọi trẻ em được hưởng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục toàn diện. Chính sự tham gia của các lực lượng vào GDMN làm cho GDMN gắn bó với cộng đồng, do cộng đồng thực hiện và vì lợi ích cộng đồng.
Thực hiện Nghị quyết số 06/2015/NQ-HĐND ngày 17/7/2015 của Hội đồng nhân dân Thành phố về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục – đào tạo của thành phố Hà Nội giai đoạn 2016 – 2020 và nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Kế hoạch của các cấp chính quyền. Ngành GD&ĐT huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội đã quản lý, đầu tư phát triển giáo dục mầm non cả công lập và tư thục đồng thời tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục mầm non. Việc chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non được thực hiện với sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Coi
trọng và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức chăm sóc, giáo dục trẻ cho các bậc phụ huynh, cha mẹ của trẻ nhằm thực hiện đa dạng hóa phương thức chăm sóc, giáo dục trẻ em. Từng bước thực hiện đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục mầm non theo nguyên tắc bảo đảm đồng bộ, phù hợp, tiên tiến, gắn với đổi mới giáo dục phổ thông, chuẩn bị tốt cho trẻ vào lớp mọt, góp phần tích cực, thiết thực nâng cao chất lượng giáo dục.
Tính đến năm học 2018 - 2019, có 13.758 trẻ bằng 56% trẻ trong độ tuổi mầm non đến trường, tăng so với năm học 2017 - 2018 là 1.886 trẻ (trẻ công lập tăng 1.148, trẻ tư thục tăng 738). Hằng năm, huyện Thạch Thất đã chỉ đạo các trường thực hiện tốt công tác rà soát cơ sở vật chất, tăng cường đầu tư xây dựng trường, phòng học cho các trường Mầm non công lập. Khuyến khích cá nhân có điều kiện mở trường, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục để đáp ứng nhu cầu gửi con của nhân dân đặc biệt là các xã làng nghề chính vì vậy hệ thống GDMN tư thục cũng ngày càng được phát triển giảm áp lực GDMN cho hệ thống công lập. Theo báo cáo tổng kết các năm học của cấp học mầm non huyện Thạch Thất. Quy mô GDMN công lập và tư thục không ngừng tăng lên: Trong thời gian 5 năm từ năm 2015 đến 2019 tăng 02 trường MN công lập, tăng 2.4% trẻ trong độ tuổi đến trường công lập. Tăng 05 trường Mầm non tư thục và 07 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục được cấp phép hoạt động giáo dục, tỷ lệ huy động trẻ đến cơ sở GDMN tư thục tăng 3.4% độ tuổi. Sự chuyển dịch này là phù hợp với xu hướng tất yếu của thời đại xã hội hóa giáo dục, cơ bản đáp ứng mọi nhu cầu của người dân.
1.4.1.2. Kinh nghiệm của huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng
Trong những năm gần đây, do tình hình phát triển nhanh, mạnh ở các khu công nghiệp, trên địa bàn huyện Thủy Nguyên đã thu hút nhiều công nhân, người lao động, đặc biệt là lao động nữ trong độ tuổi sinh con hoặc có con nhỏ đến làm việc. Vì vậy, dân số cơ học của huyện tăng nhanh, các cháu trong độ tuổi mầm non tăng theo.
Năm 2019 trên địa bàn huyện hiện có 07 trường mầm non tư thục với 39 nhóm lớp, trình độ giáo viên đạt chuẩn trở lên là 74/74 (đạt 100%), trong đó trên chuẩn