đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
Giúp học sinh dần có được kỹ năng trong việc xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp, hình thức tự học phù họp với năng lực sở trường của cá nhân, hoàn cảnh của bản thân HS. Kỹ năng tự học bao gồm:
Kỹ năng lập kế hoạch tự học, kỹ năng tổ chức thực hiện kế hoạch tự học, kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động tự học. Ngoài ra, trong hoạt động tự học, học sinh cần hình thành các kỹ năng sống như: Kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng chia sẻ,…
Mục tiêu của hoạt động tự học còn được thể hiện ở việc làm thay đổi thái độ, nhận thức của HS trong hoạt động tự học. Rèn cho học sinh THCS đặc biệt là học sinh dân tộc thiểu số có được thái độ tích cực, tự giác trong hoạt động tự học là việc làm rất khó khăn cần có sự kiên trì, bền bỉ và lâu dài.
1.3.4. Động cơ tự học
Động cơ tự học hay còn gọi là động lực tự học là những yếu tố tâm lý có tác dụng thúc đẩy chủ thể vượt qua khó khăn, trở ngại hoạt động học tập. Động cơ tự học giúp người học giải quyết được các nhiệm vụ học tập một cách chủ động.
Trong hoạt động tự học của học sinh, động cơ học tập là một yếu tố không thể thiếu, nó có vai trò quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của học sinh. Động cơ tự học có nguồn gốc bên trong và bên ngoài. Nguồn gốc bên trong là bản thân học sinh có nhu cầu, ý chí vượt khó, nỗ lực để đạt được nhiệm vụ của hoạt động tự học một cách tự giác trên cơ sở mục tiêu của hoạt động tự học. Động cơ tự học có nguồn gốc bên ngoài bao gồm sự động viên, chia sẻ của thầy cô giáo và gia đình; việc đánh giá khách quan, công bằng của thầy cô đối với học sinh, môi trường và điều kiện cơ cở vật chất của lớp học…
1.3.5. Nội dung tự học
Nội dung tự học là hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, hệ thống kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và hệ thống thái độ người học cần hình thành trong hoạt động tự học. Nội dung tự học rất phong phú bao gồm toàn bộ những vấn đề học tập do cá nhân người học độc lập tiến hành, được thể hiện qua các hành động tự học hàng ngày. Trên cơ sở mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nội dung của hoạt động tự học về cơ bản có hai phần:
- Nội dung tự học cơ bản:
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động tự học của học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên - 1
- Quản lý hoạt động tự học của học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên - 2
- Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Ở Trường Ptdt Bán Trú
- Những Vấn Đề Về Quản Lý Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Ở Trường Ptdtbt Thcs
- Kết Quả Khảo Sát Thực Trạng Về Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Ở Các Trường Phổ Thông Dân Tộc Bán Trú Thcs Huyện Nậm Pồ, Tỉnh Điện Biên
- Thực Trạng Thời Gian Dành Cho Hoạt Động Tự Học
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Đây là những nội dung gắn liền với việc thực hiện các nhiệm vụ tự học có tính chất bắt buộc (HS phải hoàn thành) theo chương trình dạy học trên lớp của giáo viên và học sinh trong các môn học. Người học thực hiện tốt những nội dung này sẽ chuyển hóa được quá trình đào tạo của nhà trường thành quá trình tự đào tạo của mỗi người học. Do đó, nội dung tự học của người học phải toàn diện, đầy đủ đảm bảo mục tiêu, yêu cầu và theo đúng nội dung chương trình do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Xét về cơ bản, nội dung của hoạt động tự học gồm: kiến thức cơ bản, kiến thức, kỹ năng về nghề nghiệp đang được đào tạo; phương pháp.
- Nội dung tự học mở rộng:
Ngoài những nội dung tự học bắt buộc theo mục tiêu, yêu cầu, chương trình đào tạo, người học có thể tự học, tự nghiên cứu những lĩnh vực khác theo sở thích, sở trường cá nhân. Đây là những nội dung tự học hàng ngày, có định hướng của giáo viên nhằm giúp học sinh mở rộng, đào sâu kiến thức. Nó được thể hiện ở việc giải quyết các nhiệm vụ, tình huống học tập cụ thể, có phạm vi rộng, người học thể học được những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo,.. thông qua sách tham khảo, sách nâng cao, mạng internet,…hoặc học được ngay trong gia đình (bố, mẹ, anh chị em), trong cuộc sống hàng ngày.
Nội dung tự học mở rộng có tác động tích cực, bổ sung, làm phong phú hơn cho nội dung tự học cơ bản. Giúp người học củng cố thêm kiến thức cũng như hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo, đáp ứng nhu cầu học mở rộng, học nâng cao.
1.3.6. Phương pháp, phương tiện tự học
Phương pháp tự học có một ý nghĩa hết sức quan trọng, vì phương pháp tự học có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập của học sinh. Muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả HĐTH, đồng thời phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, đòi hỏi HS không những có mục đích, động cơ học tập đúng đắn mà phải có phương pháp tự học phù hợp với từng bộ môn. Có nhiều phương pháp tự học nhưng về cơ bản có thể kể đến một số phương pháp tự học mà được nhiều người học sử dụng và đem lại hiệu quả cao, như:
- Phương pháp nghiên cứu sách giáo khoa, tài liệu học tập (ghi nhật ký, trích ghi, tóm tắt,...)
- Phương pháp luyện tập.
- Phương pháp ôn tập.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp thí nghiệm, thực hành (đối với những môn khoa học tự nhiên-kỹ thuật).
- Phương pháp tự đánh giá.
Nếu như học sinh biết có và biết vận dụng hiệu quả phương pháp tự học tốt, phù hợp sẽ giúp học sinh thực hiện được mục tiêu của học tập. Do đó đỏi hỏi nhà quản lí, giáo viên cần tích cực hướng dẫn, bồi dưỡng phương pháp tự học cho HS. Ngoài phương pháp tự học thì phương tiện, cơ sở vật chất như: Thiết bị đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo, phòng chức năng,...cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng hoạt động tự học của học sinh.
1.3.7. Hình thức hoạt động tự học
Hoạt động tự học có thể được xem như là hoạt động tự tổ chức để chiếm lĩnh những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo và diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu xem xét tự học trong mối quan hệ với hoạt động giảng dạy thì tự học được phân thành các hình thức như:
- Tự học không có hướng dẫn (không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên)
- Tự học có sách nhưng không có giáo viên bên cạnh.
- Tự học có sách, có thầy hướng dẫn
* Tự học không có hướng dẫn: Là hình thức tự học mà cá nhân tự mày mò, tự nghiên cứu theo sở thích và hứng thú độc lập không có sách và sự hướng dẫn của giáo viên. Tự học không có thầy hay còn gọi là tự học bậc cao là hình thức tự học mà người học đã có một trình độ nhất định để có thể tự tổ chức việc học. Hình thức tự học này phải được dựa trên nền tảng một niềm khao khát, say mê khám phá tri thức mới và đồng thời phải có một vốn tri thức vừa rộng, vừa sâu.
Hình thức này thường gặp ở các nhà nghiên cứu khoa học. Kết quả của quá trình tự học đó là đi đến sự sáng tạo và phát minh ra các tri thức khoa học mới. Hình thức tự học không có thầy là hình thức thể hiện đỉnh cao của hoạt động tự học.
* Tự học có sách nhưng không có thầy bên cạnh
Ở hình thức tự học này có thể diễn ra theo hai dạng:
Thứ nhất, tự học theo sách mà không có sự hướng dẫn của thầy:
Trường hợp này người học tự học để hiểu, để thấm các kiến thức trong sách qua đó sẽ phát triển về tư duy, tự học hoàn toàn với sách là cái đích mà mọi người phải đạt đến để xây dựng một xã hội học tập suốt đời.
Thứ hai, tự học có thầy ở xa hướng dẫn:
Mặc dù thầy ở xa nhưng vẫn có các mối quan hệ trao đổi thông tin giữa thầy và trò bằng các phương tiện trao đổi thông tin dưới dạng phản ánh và giải đáp các thắc mắc, làm bài, kiểm tra, đánh giá,...
* Tự học có sách, có thầy hướng dẫn
Ở hình thức tự học này có hai dạng:
Thứ nhất, tự học có sách và không có thầy thường xuyên:
Ở dạng tự học này, HS chỉ gặp thầy vào một thời gian nhất định nào đó của khóa học (đợt học) hoặc gặp thầy vào một số tiết trong tuần (tháng), để nhận sự định hướng, gợi ý, giải đáp thắc mắc, thời gian còn lại học sinh về nhà tự học với giáo trình và tài liệu dưới sự hướng dẫn gián tiếp của giáo viên. Dạng tự học
này thường thấy như dạy từ xa, dạy học trực tuyến.
Dạng tự học này, người thầy có vai trò là nhân tố hỗ trợ, chất xúc tác thúc đẩy và tạo điều kiện để trò tự chiếm lĩnh tri thức. Trò với vai trò là chủ thể của quá trình nhận thức: tự giác, tích cực, say mê, sáng tạo tham gia vào quá trình học tập. Mối quan hệ giữa thầy và trò chính là mối quan hệ giữa Nội lực và Ngoại lực, Ngoại lực dù quan trọng đến mấy cũng chỉ là chất xúc tác thúc đẩy Nội lực phát triển.
Trong quá trình tự học ở nhà, tuy người học không giáp mặt với thầy, nhưng dưới sự hướng dẫn gián tiếp của thầy, người học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tự sắp xếp kế hoạch huy động mọi trí tuệ và kỹ năng của bản thân để hoàn những yêu cầu do giáo viên đề ra. Tự học của người học theo dạng này liên quan trực tiếp với yêu cầu của giáo viên, được giáo viên định hướng về nội dung, phương pháp tự học để người học thực hiện. Như vậy ở dạng tự học này quá trình tự học của học sinh có liên quan chặt chẽ với quá trình dạy học, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố tổ chức và quản lý quá trình dạy học của giáo viên và quá trình tự học của học sinh. Dạng tự học này thường gặp ở các bậc học như cao đẳng, đại học,…
Thứ hai, tự học có sách và có thầy thường xuyên: Tự học có thầy hướng dẫn là hình thức tự học nằm trong hoạt động dạy học và thường gặp ở bậc học phổ thông.Người học thực hiện hoạt động tự học dưới sự định hướng, gợi mở, dẫn dắt của thầy. Tự học có thầy thường xuyên là hình thức tự học mà học sinh được thầy định hướng, gợi mở, dẫn dắt học tập ngay ở trên lớp và trên cơ sở đó về nhà học sinh có thể tự học. Tự học có thầy thường xuyên có thể diễn ra ở trên lớp và ngoài lớp. Ví dụ, học sinh giải bài tập, thảo luận nhóm để hoàn thành nhiệm vụ tự học mà thầy giao cho ở trên lớp. Hoặc thầy giao nhiệm vụ, hướng dẫn học sinh làm bài tập ở nhà, nghiên cứu trước tài liệu phục vụ cho bài học ở trên lớp,…
Có rất nhiều cách tự học nhưng bất cứ các cách tự học nào thì cũng bao gồm
các khâu tìm tòi kiến thức, suy nghĩ, đồng thời phải biết áp dụng kiến thức đó vào thực tế. Có thể tự học qua sách, báo, qua nghe giảng, qua các bài tập, qua học thuộc lòng, qua thực tế. Sách báo chiếm một vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống và trong học tập. Học qua sách báo có nghĩa là thu thập, tìm hiểu, nghiên cứu các kiến thức mà sách báo mang lại cho ta. Tự học còn thể hiện qua cách nghe giảng bài. Nghe giảng không đơn thuần chỉ là nghe giảng rồi chép vào vở rồi bỏ đấy mà khi nghe giảng còn phải hiểu và nắm vững vấn đề. Có thể tự đặt ra các câu hỏi khi nghe giảng như: Bài giảng đề cập đến vấn đề gì? Vấn đề đó đã triển khai như thế nào? Cốt lõi của vấn đề là gì?... Có thể nói, tự học qua nghe giảng là cách học phổ biến nhất. Khi nghe giảng, ta có thể nhanh chóng thu nhận được lượng kiến thức khá lớn trong một khoảng thời gian không nhiều. Đó cũng là hạn chế của việc tự học qua nghe giảng bởi với lượng kiến thức lớn trong khoảng thời gian hạn chế, người học có thể không có thời gian đào sâu suy nghĩ, tìm tòi, do đó không hiểu hết hay không nắm chắc vấn đề.
Trong các hình thức tự học trên không có hình thức tự học nào chiếm ưu thế tuyệt đối, mỗi hình thức tự học có những ưu điểm và những hạn chế riêng. Tùy trình độ, đối tượng cũng như quỹ thời gian mà người học lựa chọn hình hình tự học sao cho phù hợp nhất.Tuy các hình thức tự học này đều có ưu và nhược điểm nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau, người học có thể chỉ lựa chọn một hình thức tự học phù hợp nhất hoặc kết hợp thêm các hình thức tự học khác để có được kết quả học tập cao nhất.
Do mục đích và phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ đề cập đến dạng tự học có sách, có thầy hướng dẫn thường xuyên, từ đó học sinh có thể tự học ngay trong giờ học chính khóa và tự học ngoài thời gian học chính khóa.
1.3.8. Mối quan hệ giữa hoạt động tự học và hoạt động dạy học
Đây là mối quan hệ giữa một bên là tác động bên ngoài và một bên là hoạt động bên trong.Tác động dạy của giáo viên là bên ngoài hỗ trợ cho hoạt động tự học của học sinh. Hay nói cách hoạt động dạy học chỉ là ngoại lực, còn tự học là
nhân tố quyết định đến bản thân người học-nội lực. Nhưng hoạt động dạy học có ý nghĩa rất lớn và ảnh trực tiếp đến hoạt động tự học của học sinh.
Hoạt động dạy học là một hoạt động kép gồm hoạt động dạy do thầy đảm nhận và hoạt động học do HS đảm nhận. Hoạt động dạy của thầy giữ vai trò chủ đạo, còn hoạt động học của HS giữ vị trí chủ động.
Hoạt động dạy học là một hoạt động có hai chủ thể: Giáo viên và học sinh, hoạt động này không chỉ là hoạt động truyền thụ kiến thức cho học sinh mà bao gồm cả công việc tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, điều khiển nhận thức của học sinh hình thành kỹ năng, hướng dẫn học sinh phương pháp học tập, giáo dục cho học sinh về động cơ tự học nhằm đạt kết quả cao trong học tập và rèn luyện.
Tự học là hoạt động nhận thức của con người về những quy luật của tự nhiên. Hoạt động dạy học và hoạt động tự học là hai hoạt đọng có mối quan hệ biện chứng với nhau, hoạt động dạy học và hoạt động tự học là hai yếu tố cấu thành của quá trình dạy học. Nếu chỉ có dạy hoặc chỉ có tự học riêng rẽ, độc lập thì không có quá trình dạy học, các mục tiêu đề ra sẽ không thể thực hiện được. Mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động dạy học và hoạt động tự học còn thể hiện ở chỗ kết quả của hoạt động này phụ thuộc vào hoạt động kia và ngược lại.
Trong quá trình dạy học giáo viên tác động đến học sinh bằng các biện pháp sư phạm, học sinh tiếp nhận sự tác động của giáo viên. Nếu giáo viên dạy tốt, có phương pháp tốt sẽ phát huy được khả năng sáng tạo của học sinh sẽ tạo ra được kết quả học tập tốt. Vai trò chủ thể của học sinh càng được phát huy, kết quả học tập của học sinh càng cao thì hiệu quả của quá trình dạy càng cao.
Sự thống nhất biện chứng giữa dạy và học đòi hỏi hoạt động dạy học đóng vái trò chủ đạo, tổ chức, hướng dẫn hoạt động tự học.
Vậy hoạt động của hai chủ thể riêng nhưng có mối quan hệ biện chứng tác động của hai chủ thể riêng nhưng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Bản chất của quá trình dạy học là quá trình nhận thức độc đáo của
người học dưới sự điều khiển, hướng dẫn của giáo viên nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức.
1.3.9. Đánh giá kết quả hoạt động tự học
Công tác kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động tự học là việc làm rất cần thiết, có tính thường xuyên liên tục và có hệ thống trong quá trình quản lí. Thông qua kiểm tra, nhà trường sẽ có những thông tin kịp thời, cần thiết để làm cơ sở cho việc đánh giá. Bên cạnh đó giúp CBQL và giáo viên có hướng điều chỉnh bổ sung kế hoạch quản lý tổ chức các hoạt động tự học của học sinh kịp thời hiệu quả. Góp phần nâng cao chất lượng công tác tự học cuả học sinh cũng như nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường.
1.3.10. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tự học
* Yếu tố khách quan là các yếu tố tác động từ bên ngoài vào chủ thể người học, bao gồm:
- Nội dung chương trình:
Nội dung chương trình môn học có tác động rất nhiều đến phương pháp giảng dạy của giáo viên, qua đó tác động đến quá trình nhận thức của học sinh, tác động đến cách học sinh học thế nào, thụ động hay chủ động tự học. Đối với học sinh DTTS vùng đặc biệt khó khăn thì nội dung chương trình phù hợp, vừa sức… còn có ý nghĩa quan trọng với các em.
- Phương pháp giảng dạy:
Phương pháp giảng dạy của giáo viên đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc định hướng ý thức tự học của học sinh, là yếu tố ảnh hưởng lớn tới năng lực và hiệu quả tự học của học sinh. Đặc biệt đối với học sinh dân tộc thiểu số thì phương pháp giảng dạy của GV càng quan trọng. Nếu GV biết vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, giúp học sinh ham học hỏi, tích cực tìm tòi sáng tạo sẽ phát huy được tinh thần tự học của các em. Và ngược lại, học sinh sẽ nhàm chán khi phương pháp giảng dạy của thầy cô không sáng tạo, không phong phú và không gây hứng thú.
- Cách thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập: