trong giai đoạn hiện nay”, tạp chí Giáo dục, số Đặc biệt, tháng 1. Các công trình nghiên cứu về vấn đề tự học ở những góc độ khía cạnh khác nhau, đã chỉ ra vai trò, vị trí, tầm quan trọng của tự học, các phương pháp tự học, các điều kiện, phương tiện phục vụ tự học, các yếu tố ảnh hưởng tới kết quả tự học và các phương pháp nâng cao chất lượng tự học.
Tuy nhiên, về phương diện quản lý hoạt động tự học của học sinh ở các trường PTDTBT THCS trên địa bàn huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên thì hiện nay chưa có tác giả nào đề cập đến. Do đó đề tài tập trung nghiên cứu sâu về cơ sở lý luận của hoạt động tự học, thực trạng quản lý hoạt động tự học, trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao chất lượng tự học của học sinh ở các trường PTDTBT THCS vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng học tập cho HS ở các trường PTDTBT THCS trên địa bàn huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Tự học
Theo từ điển Việt Nam, khái niệm "Tự học" được hiểu là "Tự học lấy một mình trong sách chứ không có thầy dạy" cũng có thể hiểu là "Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học". [15]
Có nhiều tác giả nghiên cứu về tự học, luận văn đưa ra một số quan điểm của các nhà nghiên cứu về vấn đề này:
Theo tác giả Lê Khánh Bằng: "Tự học là tự mình suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nhất định" [1]. Tác giả cho rằng tự học là việc học của chính bản thân người học, chính họ phải huy động các năng lực trí tuệ, các phẩm chất tâm lý để chiếm lĩnh những tri thức khoa học của loài người và biến những tri thức đó thành vốn kinh nghiệm của bản thân.
Trong quyển "Tự học - một nhu cầu thời đại” của tác giả Nguyễn Hiến Lê, ông lại cho rằng khái niệm "Tự học" được hiểu là "… không ai bắt buộc mà mình tự tìm tòi, học hỏi để hiểu biết thêm và có thầy hay không, ta không cần biết.
Người tự học hoàn toàn làm chủ mình, muốn học môn nào tuỳ ý, muốn học lúc nào cũng được, đó mới là điều kiện quan trọng", ông cũng trích dẫn để làm rõ hơn về khái niệm và tầm quan trọng của tự học "Mỗi người đều nhận hai thứ giáo dục: Một thứ, do người khác truyền cho, một thứ quan trọng hơn nhiều, do mình tự kiếm lấy". [9]
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn: “Tự học - là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích tổng hợp...) và khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công cụ) cùng các phẩm chất của mình, rồi cả động cơ, tình cảm, cá nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biến khó khăn thành thuận lợi...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình”[22].
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động tự học của học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên - 1
- Quản lý hoạt động tự học của học sinh ở các trường phổ thông dân tộc bán trú trung học cơ sở huyện Nậm Pồ tỉnh Điện Biên - 2
- Mối Quan Hệ Giữa Hoạt Động Tự Học Và Hoạt Động Dạy Học
- Những Vấn Đề Về Quản Lý Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Ở Trường Ptdtbt Thcs
- Kết Quả Khảo Sát Thực Trạng Về Hoạt Động Tự Học Của Học Sinh Ở Các Trường Phổ Thông Dân Tộc Bán Trú Thcs Huyện Nậm Pồ, Tỉnh Điện Biên
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Theo tác giả Nguyễn Văn Đạo: "Tự học là công việc tự giác của mỗi người do nhận thức được đúng đắn vai trò quyết định của nó đến sự tích lũy kiến thức cho bản thân, cho chất lượng công việc mình đảm nhiệm, cho sự tiến bộ xã hội".[6, tr.1]
Theo tác giả Võ Quang Phúc: “Tự học là một bộ phận của học, nó được tạo thành bởi những thao tác, cử chỉ ngôn ngữ, hành động của người học trong hệ thống tương tác của hoạt động dạy học. Tự học phản ánh rõ nhu cầu bức xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nỗ lực của người học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nội dung học tập nhất định”[16, Tr37].
Những quan điểm trên về tự học tuy khác nhau, nhưng đều chung bản chất đó là sự tự giác và kiên trì cao; sự tích cực, độc lập và sáng tạo của người học trong học tập.
Từ những quan điểm nêu trên, ta có thể thấy: Tự học là một quá trình hoạt động nhận thức của mỗi người, là sự nỗ lực, tự giác chiếm lĩnh tri thức phù hợp với điều kiện, khả năng, mục tiêu đề ra để hình thành phát triển nhân cách.
1.2.2. Hoạt động tự học của học sinh ở trường PTDT bán trú
Là hoạt động học tập tự giác, tích cực nhằm nâng cao hiệu quả học tập của học sinh ở trường PTDT bán trú.
Hoạt động tự học của học sinh ở trường PTDT bán trú chủ yếu là học sinh người DTTS chính là phát huy vai trò tích cực chủ động học tập của người học, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính mình.
Hoạt động tự học của các em HS được thực hiện chủ yếu tại nhà trường, có thể trên lớp trong giờ học chính khóa, cũng có thể tự học ngoài giờ chính khóa khi không có sự hướng dẫn của thây cô giáo.
1.2.3. Quản lý hoạt động tự học
Quản lý hoạt động tự học được xem là một trong những nội dung cơ bản của quản lý nhà trường. Quản lý hoạt động tự học là quản lý các hoạt động học tập tích cực của người học và các điều kiện đảm bảo cho người học học tập tích cực, nhằm nâng cao hiệu quả học tập của người học và hiệu quả đào tạo của cơ sở giáo dục.
Đối với các nhà trường, công tác quản lí hoạt động tự học ở học sinh chính là cụ thế hóa kế hoạch hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của nhà trường nhằm điều khiển các tổ chức trong nhà trường thực hiện việc quản lí, kiểm tra, đôn đốc hoạt động tự học của học sinh, phát huy vai trò tích cực chủ động học tập của học sinh, giúp người học chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính mình. Quản lý hoạt động tự học của học sinh có liên quan chặt chẽ với quá trình tổ chức dạy học của giáo viên.
Quản lý hoạt động tự học là bộ phận cấu thành nên hệ thống quản lý quá trình giáo dục, đào tạo trong nhà trường. Quản lý hoạt động tự học của học sinh bao gồm hai quá trình cơ bản là quản lý hoạt động tự học trong giờ lên lớp và quản lý hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp, được tiến hành trên cả hai phương diện ở trường và ở nhà.
Như vậy, quản lý hoạt động tự học là một hệ thống các tác động sư phạm có mục đích, phương pháp, kế hoạch của các lực lượng giáo dục trong và ngoài
nhà trường đến toàn bộ quá trình tự học của học sinh nhằm thúc đẩy học sinh tự giác, tích cực, chủ động tự chiếm lĩnh tri thức bằng sự cố gắng nỗ lực của chính bản thân trong hoạt động học tập.
Nội dung quản lý hoạt động tự học của học sinh bao gồm nhiều hoạt động như: quản lý việc bồi dưỡng động cơ tự học; xây dựng và thực hiện kế hoạch tự học; xây dựng nội dung tự học; bồi dưỡng phương pháp tự học; xây dựng kế hoạch kiểm tra đánh giá kết quả tự học; các điều kiện đảm bảo cho hoạt động tự học.
1.2.4. Biện pháp quản lý hoạt động tự học của học sinh
Theo Từ điển tiếng Việt: Biện pháp là cách làm là cách thức tiến hành giải quyết một vấn đề nào đó cụ thể.
Biện pháp quản lý là tổng hợp các phương pháp, hình thức tiến hành của nhà quản lý, nhằm tác động đến đối tượng được quản lý để giải quyết những vấn đề cụ thể nhằm đạt được mục tiêu của chủ thể quản lý đề ra.
Biện pháp quản lý hoạt động tự học là tổng hợp các phương pháp, cách thức tiến hành tác động của các nhà quản lý, giáo viên, các lực lượng khác đến việc tự học của học sinh nhằm mục đích khơi dậy tính tự giác học tập của học sinh.
Biện pháp quản lý hoạt động tự học của HS không chỉ giới hạn trong phạm vi giáo dục HS ở trên lớp, mà còn gồm cả việc HS tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tự học, thực hành, giao lưu,...
Để quản lý tốt hoạt động tự học của học sinh có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, nhưng có thể chia thành ba nhóm biện pháp chính:
Biện pháp quản lý có tính chất hành chính, quy chế: Căn cứ Điều lệ trường THCS, quy định quản lý việc dạy học trên lớp của giáo viên và việc học tập của học sinh.
Biện pháp quản lý có tính chất đặc thù: Thông qua việc soạn bài trước khi lên lớp, giáo viên thiết kế bài giảng có các tình huống để tạo hứng thú học tập,
phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, thu hút học sinh vào hoạt động tự học ngay trong các giờ lên lớp. Thông qua việc giao nội dung lý thuyết, bài tập để học sinh tự học ngoài giờ lên lớp. Nâng cao nhận thức cho HS về mục tiêu của tự học, kích thích niềm hứng thú, say mê tự học của HS; giúp HS hình thành và sử dụng các phương pháp tự học một cách hiệu quả như: chọn tài liệu nghiên cứu, cách đọc sách, tra cứu tài liệu; cách ghi chép, trích dẫn; cách sử dụng tư liệu trong nghiên cứu. Nhà trường tổ chức các chuyên đề về phương pháp tự học cho HS theo định kỳ, đảm bảo hiệu quả.
Biện pháp quản lý mang tính chất kích thích hoạt động của cá nhân: Tổ chức các hoạt động thi đua giữa cá nhân, nhóm, tập thể lớp và trong toàn trường. xây dựng bầu không khí học tập tích cực, tạo hứng thú học tập, phá thuy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; Động viên, khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích cao trong học tập, những tập thể có phong trào tự quản tốt trong học tập để kích thích hứng thú và hình thành ý thức tự học trong học sinh.
1.3. Khái quát chung về hoạt động tự học của học sinh ở trường PTDTBT THCS
1.3.1. Đặc điểm học sinh trường PTDTBT THCS
Trường PTDTBT THCS là trường năm trong hệ thống giáo dục quốc dân, được thành lập cho con em các dân tộc thiểu số, con em gia đình các dân tộc định cư lâu dài tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nhằm góp phần tạo nguồn đào tạo cán bộ cho các vùng này. Trường PTDTBT THCS có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, quốc phòng ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số; ý nghĩa thực tế đối với học sinh dân tộc ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
+ Đặc điểm về nhận thức của học sinh trường PTDT Bán trú THCS
Học sinh trường PTDTBT THCS xuất thân từ các xã có điều kiện kinh tế
- xã hội đặc biệt khó khăn của miền núi, chủ yếu là các xã thuộc vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Địa hình hiếm trở, phân bố dân cư không đồng đều, giao thông đi lại hết sức khó khăn, nhiều hộ gia đình cách trung tâm xã hơn 15 km.
Học sinh THCS có lứa tuổi từ 11-15 tuổi, đây là lứa tuổi rất phức tạp về
tâm, sinh lí. Bên cạnh đó các em là học sinh người dân tộc thiểu số, lứa tuổi này đa số là lao động cơ bản của gia đình, điều đó ảnh hưởng không nhỏ tới công tác dạy và học của nhà trường cũng như hoạt động tự học của các em.
Thực tế đã cho thấy, khả năng tư duy trực quan hình ảnh của học sinh dân tộc tốt hơn khả năng tư duy trừu tượng - logic. Vì đối tượng tri giác gần gũi của học sinh dân tộc chủ yếu là cây cối, thiên nhiên. Do đó, việc tổ chức các hình thức học tập đa dạng như: tham quan, ngoại khoá, tăng cường cách dạy học trực quan... sẽ giúp học sinh dễ hiểu, tạo tiền đề cho nhận thức ở mức độ cao hơn đó là nhận thức duy trừu tượng - logic.
+ Đặc điểm về tình cảm, tính cách của học sinh trường PTDT BT THCS Học sinh dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng mạnh của cộng đồng nơi các em cư
trú, thông qua các hoạt động giao tiếp. Cách nói, cách nghĩ và hành vi của học sinh dân tộc có những nét riêng. Trong quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội, các em coi trọng tín nghĩa, trung thực, thẳng thắn. Tình cảm, tính cách của học sinh dân tộc thiểu số bộc lộ một cách khá sâu sắc. Tuy nhiên, tình cảm đó thường thầm kín, ít biểu hiện ra ngoài một cách mạnh mẽ. Khi giao tiếp với người thân, với bạn là thẳng thắn, bình đẳng. Giao tiếp với người lạ các em thiếu tự tin, kỹ năng diễn đạt chưa thực sự lưu loát, ngại trao đổi. Do kỹ năng định hướng trong giao tiếp chưa được hình thành chắc chắn vì chịu ảnh hưởng từ nhỏ của cộng đồng.
Trong quá trình học tập tại trường, là môi trường giao tiếp sư phạm mới, có ý nghĩa lớn đối với các em. Khi được giao tiếp trong môi trường mới đa dạng, phong phú về các hình thức tổ chức học tập, thời gian tiếp xúc của học sinh với các lực lượng giáo dục trong nhà trường nhiều hơn so với các môi trường khác. Tuy nhiên, tính tích cực trong giao tiếp của học sinh chưa cao, kỹ năng sống, khả năng giao tiếp, còn nhiều hạn chế.
Từ những đặc trưng cơ bản về hoạt động dạy học và đặc điểm học sinh trung học cơ sở nói trên, đòi hỏi công tác quản lí hoạt động dạy học, cũng như việc bồi dưỡng kĩ năng sống, kĩ năng giao tiếp cho học sinh người dân tộc thiểu số cần được đặc biệt quan tâm nhằm nâng cao chất lượng dạy-học, chất lượng cuộc sống của học sinh dân tộc, phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
Có thể xem tính tích cực (hình thành từ năng lực tự học) như một điều
kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập.
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đòi hỏi người học không chỉ có kiến thức mà còn cần phát triển kỹ năng học tập, làm việc. Đây là một trong những khó khăn lớn đối với công tác quản lý hoạt động tự học cho HS người dân tộc thiểu số vùng sâu vùng xa.
Tính tích cực tự giác học tập của học sinh người dân tộc thiểu số phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó một trong những nguyên nhân quan trọng đó là sự quan tâm của gia đình. Đa số gia đình các em là hộ nghèo, hoặc cận nghèo, cha mẹ các em hàng ngày lên nương rãy, ít có thời gian quan tâm tới việc tự học của các em. Ngoài ra tính tự ái của học sinh người dân tộc thiểu số rất cao, nên các biện pháp quản lý của thầy cô nếu không được vận dụng một cách khéo léo thì khó đem lại hiệu quả.
1.3.2. Ý nghĩa, vai trò của hoạt động tự học
Hoạt động tự giác, tích cực của cá nhân trong quá trình tự học đóng vai trò quyết định đến việc hình thành, phát triển nhân cách người học.
Đôí với học sinh người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì hoạt động tự học còn có ý nghĩa rất quan trọng và thiết thực. Vốn sống của người dân tộc thiểu số còn hạn chế về ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp, vì vậy hoạt động tự học một cách tự giác, tích cực góp phần không nhỏ giúp học sinh thêm tự tin trong giao tiếp và ứng xử với thầy cô, bạn bè.
Việc tự học của học sinh có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển
trí tuệ và nhân cách của các em. Trí tuệ của học sinh được phát triển trong quá trình tự học của các em bởi lẽ khi tự học các em luôn luôn phải động não, tìm tòi. Các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận logic,… thường xuyên được sử dụng đã mài sắc trí tuệ của học sinh. Tư duy độc lập của học sinh cũng được phát triển trong quá trình tự học của các em. Việc tự học của học sinh cũng góp phần không nhỏ tới sự phát triển nhân cách của các em. Tính kiên trì, bền bỉ, theo đuổi mục đích đến cùng; dám đương đầu với những khó khăn, thử thách trong học tập; sự trung thực, say mê trong học tập cũng là những phẩm chất nhân cách nổi bật của học sinh THCS.
Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy năng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học.
1.3.3. Mục tiêu của hoạt động tự học
Tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học.
Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học (DH) giáo viên (GV) không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu SV ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho HS tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp HS không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. Thực tiễn cũng như phương pháp dạy học hiện đại còn xác định rõ: phương pháp dạy học thì cốt lõi chính là dạy tự học.
Bồi dưỡng năng lực tự học là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang