Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP của Đức
3. Mô hình quản lý CTCP ở Mỹ
CTCP của Mỹ thực hiện cơ chế quản lý “đơn lớp” (one - tier board), tức là cơ quan chức năng thường trực của công ty chỉ có HĐQT (board of directors). Quyền lực của ĐHĐCĐ được pháp luật quy định rõ ràng, các quyền lực không thuộc ĐHĐCĐ là thuộc phạm vi quyền hạn của HĐQT. HĐQT có quyền lớn, tập trung toàn bộ các chức năng quản lý kinh doanh. Nói cụ thể hơn, HĐQT là cơ quan tập trung các chức năng như quyết sách, điều hành, kiểm soát và đại diện đối ngoại. Để phân công các chức năng một cách rõ ràng, HĐQT trong nội bộ phải thành lập các ủy ban chuyên trách, ví dụ như ủy ban chấp hành (the executive committee of the board of directors), ủy ban kiểm toán (the audit committee of the board of directors), ủy ban tiền lương (the compensation committee of the board of directors), ủy ban đề bạt (the nomination commiettee of the board of directors), v.v.
Ủy ban chấp hành có quyền và nhiệm vụ thực hiện các nghị quyết của ĐHĐCĐ và HĐQT, thực hiện quản lý điều hành nghiệp vụ thường nhật, bao gồm các thành viên là các đổng sự độc lập, có quyền và nhiệm vụ giám sát các đổng sự điều hành và cán bộ quản lý cao cấp khác của công ty từ góc độ và phương diện khác nhau tương ứng với chức năng của ủy ban mình. Đại đa số thành viên (trên 80%) của ủy ban kiểm toán là các đổng sự độc lập, họ có nhiệm vụ thực hiện giám sát hoạt động quản lý kinh doanh của ủy ban chấp hành. Ủy ban kiểm toán có quyền thuê nhiệm
kiểm toán viên độc lập, xác định phạm vi kiểm toán và đánh giá kết quả kiểm toán, kiểm toán tài chính của công ty, v.v.
Chức quyền của ủy ban đề bạt là tìm kiếm những nhà kinh doanh có đôi mắt chiến lược, giàu kinh nghiệm quản trị và uy tín, sau đó giới thiệu cho HĐQT và ĐHĐCĐ để xem xét và lựa chọn làm đổng sự điều hành và cán bộ quản lý cao cấp của công ty.
Ủy ban tiền lương có quyền và nhiệm vụ khảo sát và đánh giá công việc của các đổng sự điều hành và các cán bộ quản lý cao cấp khác, lập phương án mức tiền lương và thù lao của họ, kể cả các biện pháp kích thích dài hạn.
HĐQT triệu tập họp theo định kỳ với sự tham gia của toàn thể các đổng sự, tại cuộc họp các đổng sự thẩm định báo cáo của các ủy ban, thảo luận các vấn đề liên quan đến mọi công việc quản lý kinh doanh, biểu quyết thông qua các nghị quyết với đa số các thành viên tán thành. Có thể minh họa mô hình quản lý CTCP của Mỹ thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 4: Cơ cấu tổ chức quản lý CTCP của Mỹ
4. Bình luận các mô hình quản lý CTCP trên thế giới và mối liên hệ của chúng tới mô hình quản lý CTCP ở Việt Nam.
Qua tổng kết các mô hình nêu trên, có thể thấy rằng, hiện nay trên thế giới cơ bản tồn tại hai chế độ pháp luật khác nhau, một là chế độ tổ chức quản lý CTCP theo kiểu đơn lớp (One-tier Board), hai là chế độ tổ chức quản lý CTCP theo kiểu song lớp (two-tier Board). Nói riêng về chế độ thứ hai, ngoài việc thiết lập một cơ quan chuyên trách thực hiện các hoạt động quản lý điều hành, các CTCP còn phải thiết lập một cơ quan khác chuyên trách thực hiện chức năng kiểm soát. Trong thực tiễn, các công ty theo kiểu đơn lớp cũng thực hiện sự tách biệt chức năng quản lý điều hành với chức năng kiểm soát, tức là, các thành viên điều hành chuyên trách công việc quản lý kinh doanh, trong khi các thành viên không điều hành thì có quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động quản lý kinh doanh. Đối với hai chế độ tổ chức quản lý này, điều quan trọng nhất là phải phân định rõ ràng chức trách của hai nhóm người của từng loại. Việc hoàn thiện sự phân định này có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu tư từ các nước khác nhau cùng nhau thành lập công ty, và hơn nữa, sẽ đẩy mạnh tiến trình hòa hợp giữa các công ty ở các nước khác nhau trên thế giới.
So sánh với ba mô hình quản lý CTCP điển hình nêu trên thì mô hình quản lý CTCP ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng nhất với mô hình quản lý CTCP theo Luật Công ty của Nhật Bản. Theo đó, Luật Công ty của Nhật và LDNVN 2005 đều quy định cơ cấu quản lý CTCP bao gồm (i) ĐHĐCĐ – cơ quan quyết định cao nhất của công ty; (ii) HĐQT – cơ quan chấp hành nghiệp vụ và đại diện công ty; (iii) BKS – cơ quan giám sát. HĐQT và BKS do ĐHĐCĐ bầu ra, có nghĩa vụ báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước ĐHĐCĐ. HĐQT và BKS là hai cơ quan chức năng và thường trực có địa vị pháp lý ngang nhau. CTCP ở Việt Nam có sự tham gia của cổ đông nhà nước trong cơ cấu cổ đông, mặc dù đạt được mục đích duy trì quyền chi phối trong công ty nhưng trong nhiều công ty, vị thế của cổ đông nhà nước bị lạm dụng dẫn tới làm thiệt hại cho cổ đông nói chung. Ở Nhật Bản nhằm khắc phục tình trạng hình thức hóa của HĐQT, BKS đã xây dựng mô hình tổ chức nội bộ mới trong đó thiết lập các Ủy ban trực thuộc HĐQT trong đó có Ủy ban giám
sát làm nhiệm vụ giám sát thường xuyên hoạt động quản lý điều hành công ty thay cho BKS của mô hình cũ.
Từ việc nghiên cứu các mô hình quản lý CTCP khác nhau trên thế giới cũng như tìm ra mối liên hệ của chúng tới mô hình quản lý CTCP ở Việt Nam, có thể kết luận rằng, việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý nào không phải là điều quan trọng nhất. Thực ra, điều quan trọng nhất khi lựa chọn bất kỳ một mô hình quản lý nào là pháp luật của mỗi quốc gia cần có quy định cho phép cơ quan quản lý điều hành có đầy đủ thẩm quyền để nó có thể thực hiện chức trách một cách năng động, tích cực và cũng phải luôn chú trọng đến việc thiết lập một cơ chế kiểm soát đắc lực để thực hiện chức năng giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý điều hành đó.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Như đã phân tích trong Chương I, Quản lý CTCP trên cơ sở nghiên cứu LDNVN 2005 là phương thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công ty bao gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, TGĐ/GĐ, BKS và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan này. ĐHĐCĐ bao gồm tất cả các cổ đông – chủ sở hữu của công ty và cuộc họp ĐHĐCĐ chính là nơi các cổ đông thực hiện quyền lực của mình nên các quy định của LDN để bảo vệ quyền lợi của cổ đông, cuộc họp ĐHĐCĐ đóng vai trò hết sức quan trọng trong quản lý CTCP. Bên cạnh đó, các quy định về quyền và nghĩa vụ của HĐQT, GĐ/TGĐ, BKS và cơ chế kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan cũng là những cơ sở pháp lý quan trọng và cụ thể nhất cho hoạt động quản lý CTCP hiện nay. Do vậy, khi xem xét thực trạng quản lý CTCP theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, khóa luận chủ yếu tập trung vào sáu vấn đề chủ yếu là: (i) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cổ đông; (ii) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cuộc họp ĐHĐCĐ; (iii) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về HĐQT; (iv) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGĐ/GĐ; (v) Thực trạng điều chỉnh pháp luật về BKS; (vi) Một số thực trạng khác trong quản lý CTCP hiện nay như vấn đề kiểm soát các giao dịch của công ty với các bên có liên quan, ảnh hưởng của chế độ quản lý nội bộ DNNN tới vấn đề quản lý CTCP hiện nay, thực trạng điều chỉnh các thỏa thuận giữa các cổ đông với nhau và giữa cổ đông với công ty
I. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về cổ đông
Khoản 11 điều 4 LDN 2005 quy định: “Cổ đông là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã phát hành của CTCP”. Cổ đông có các quyền và nghĩa vụ đối với công ty tương ứng với số cổ phần của mình. Khái niệm cổ đông có các nội hàm như sau:
Những số liệu thực tế trình bày trong toàn bộ phần thực trạng chủ yếu dựa vào số liệu từ cuộc điều tra thực tế về quản trị CTCP do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung - Trưởng ban Kinh tế Vĩ mô, Phó Viện trưởng CIEM thực hiện vào cuối năm 2007, kết hợp với thông tin thu thập được qua các cuộc hội thảo và tổng kết thực tiễn triển khai thi hành, Luật Doanh Nghiệp liên quan đến quản lý CTCP vào 2 năm 2008 -2009 và các cuộc họp về dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 139 hướng dẫn thi hành LDN diễn ra vào tháng 1, tháng 2 và tháng 3 năm 2010.
Cổ đông là thành viên của công ty, là một trong những yếu tố cấu thành tư cách pháp nhân của công ty;
Sự nắm giữ cổ phần là cơ sở và điều kiện tất yếu để tư cách pháp nhân của cổ đông được duy trì và tồn tại;
Cổ đông được hưởng quyền cổ đông xuất phát từ sự góp vốn, và từ đó phát sinh mối quan hệ quyền và nghĩa vụ đối với công ty;
Cổ đông là chủ sở hữu tài sản cổ phần, hình thức bề ngoài của cổ phần là cổ phiếu.
Cần lưu ý rằng, cổ đông là chủ sở hữu của công ty, song công ty sở hữu tài sản của công ty. Không thể suy luận rằng cổ đông là chủ sở hữu tài sản của công ty bởi vì công ty là một chủ thể độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài sản của chính mình, tách biệt với tài sản của bất kỳ một cổ đông nào. Cổ đông sở hữu công ty thông qua thực hiện quyền cổ đông. Đặc điểm của quyền sở hữu của cổ đông đối với công ty được thể hiện như sau:
(i) Một khi cổ đông đã đóng góp tài sản vào công ty, thì họ mất quyền sở hữu phần tài sản đó. Họ không được chi phối cũng như rút lại phần tài sản đó. Thay vào đó, họ sẽ được nhận và sở hữu số cổ phần tương ứng với giá trị tài sản mà họ đã bỏ vào công ty, mà hình thức tiêu biểu là cổ phiếu. Tức là, cổ đông đã từ chủ sở hữu tài sản riêng biệt trở thành chủ sở hữu cổ phần.
(ii) Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá trị, cũng như là một loại tài sản, nói cách khác, nó là một loại giấy tờ để thiết lập và chứng minh những quyền lợi về tài sản. Cổ phiếu gắn bó chặt chẽ với những quyền lợi về tài sản, biểu hiện bằng việc chủ sở hữu cổ phiếu (cổ đông) có quyền chiếm hữu, sử dụng (cầm cố hoặc thế chấp cổ phiếu để vay tiền ngân hàng, v.v.), thu lợi tức (cổ tức), định đoạt (chuyển nhương, tặng cho, thừa kế, v.v.) đối với số cổ phiếu của mình.
(iii) Chủ sở hữu cổ phiếu (cổ đông) có những quyền như thu nhận cổ tức, dự họp ĐHĐCĐ để quyết định những quyết sách trọng đại của công ty, bầu cử những người quản trị công ty, v.v.
Như vậy, quyền của cổ đông được thể hiện bằng hình thức giá trị là cổ phần, được thể hiện bề ngoài là số cổ phiếu. Quyền cổ đông là nội dung của cổ phiếu, cổ phiếu là hình thức bề ngoài của quyền cổ đông.
1. Cổ đông sáng lập
Cổ đông là chủ sở hữu cổ phần sau khi công ty được thành lập và cấp GCNĐKKD. Tức là tư cách cổ đông phụ thuộc vào sự thành lập của công ty. Khoản 11 điều 4 LDN 2005 quy định: “Cổ đông sáng lập là cổ đông tham gia xây dựng, thông qua và ký tên vào bản Điều lệ đầu tiên của CTCP”. Ngoài ra, tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng cổ phần phổ thông của Cổ đông sáng lập trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công ty được cấp GCNĐKKD cũng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty (Khoản 5 điều 84).
Thực trạng điều chính pháp luật về quyền, nghĩa vụ của cổ đông sáng lập so với các cổ đông khác:
Cổ đông sáng lập | Cổ đông khác | |
1 | Được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết trong vòng 3 năm đầu kể từ ngày được cấp giấy CNĐKKD; không được chuyển nhượng cổ phần ưu đãi biểu quyết. | Không được nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu quyết (trừ cổ đông nhà nước trong một số ngành nghề do chính phủ quy định). |
2 | Bị hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày được cấp GCN ĐKKD (chỉ được tự do chuyển nhượng giữa các cổ đông sáng lập, chuyển nhượng cho đối tượng khác phải được ĐHĐCĐ chấp thuận và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập). | Không bị bất kỳ hạn chế nào về chuyển nhượng cổ phần phổ thông |
3 | Phải cùng nhau đăng ký mua ít nhất 20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua trong vòng 90 ngày kể từ ngày được cấp GCNĐKKD | Không phải thực hiện nghĩa vụ này. |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp - 2
- Tổng Quan Về Quản Lý Ctcp Theo Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam
- Cơ Cấu Tổ Chức Quản Lý Ctcp Của Nhật Bản
- Thực Trạng Điều Chỉnh Pháp Luật Về Các Quyền Của Cổ Đông Nói Chung
- Thực Trạng Điều Chỉnh Pháp Luật Về Nghĩa Vụ Của Các Cổ Đông
- Thực Trạng Điều Chỉnh Pháp Luật Về Cuộc Họp Đhđcđ
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Việc quy định cổ đông sáng lập được hưởng quyền ưu đãi biểu quyết trong vòng 3 năm đầu kể từ khi CTCP được cấp GCNĐKKD có thể coi như là một loại thù lao giành cho cổ đông sáng lập vì sự cống hiến của họ trong việc thành lập công ty. Còn quy định hạn chế việc chuyển nhượng cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập trong 3 năm đầu kể từ ngày CTCP được cấp GCNĐKKD nhằm mục đích quy định các cổ đông đã có ý tưởng sáng lập ra công ty không được tùy ý từ bỏ công ty, phải có trách nhiệm đối với công ty. Việc một cổ đông sáng lập rời khỏi công ty phải được ĐHĐCĐ chấp thuận, tức là phải được sự đồng ý của các cổ đông khác.
Về nghĩa vụ của cổ đông sáng lập, trong thực tế việc cổ đông sáng lập không góp đủ và đúng số cổ phần đăng ký mua là khá phổ biến. Khoản 6 điều 4 LDN 2005 quy định: “Vốn điều lệ là số vốn do các cổ đông đã góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào điều lệ công ty”. Quy định này chưa làm rõ khái niệm vốn điều lệ dẫn đến sự nhầm lẫn phổ biến giữa vốn điều lệ (số cổ phần tạo nên vốn điều lệ) và vốn được quyền phát hành (tổng giá trị số cổ phần được quyền phát hành) trong thực tế hiện nay. Vốn điều lệ là giá trị danh nghĩa của tổng số cổ phần được quyền phát hành của công ty (như là một pháp nhân) và là một trong những nội dung đăng ký kinh doanh của công ty. Tuy vậy, trên thực tế ở một số lớn các CTCP hiện nay, vốn điều lệ khai báo và đăng ký là giá trị danh nghĩa của tất cả số cổ phần đã bán và số cổ phần được quyền chào bán (nhưng chưa bán, hay tung ra bán – tức là chưa phát hành). Thậm chí ở một số công ty, số cổ phần đã phát hành
chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 1/20) trong tổng số cổ phần đăng ký là vốn điều lệ của công ty1.
Vi phạm nói trên đã tạo ra ba hệ quả không tốt đối với công ty, cổ đông của công ty và cả các bên có liên quan. Một là, nó tạo ra một sự nhầm lẫn về sở hữu và cơ cấu sở hữu công ty; có thể có sự chênh lệch lớn giữa cơ cấu sở hữu theo cổ phần đã góp và cơ cấu sở hữu theo số cổ phần đăng ký góp. Và đó là nguyên nhân của không ít các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ cổ đông của công ty. Hai là, về bản chất, có thể coi số cổ phần đã đăng ký nhưng chưa góp tiền là số cổ phần mà cổ
1 Số liệu theo Điều tra thực tế về quản trị CTCP do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung thực hiện cuối năm 2007, CIEM, trình bày trong cuốn Công ty Vốn, Quản lý và Tranh chấp, Nxb Tri Thức, năm 2009, tr.313.