Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp - 2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các vấn đề pháp lý về quản lý CTCP, đặc biệt là quản lý các CTCP đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

Hiện nay, trong các CTCP không chỉ có việc quản lý mà có đến ba lĩnh vực liên quan đến việc điều hành công ty: (i) Một là, Quản lý CTCP: Đây là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực của công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó (hay còn gọi là cơ cấu quản lý CTCP); (ii) Hai là, Cơ cấu tổ chức trong công ty – tức là cách thức sắp xếp các đơn vị khác nhau của công ty thành các phòng, ban, tổ, v.v; (iii) Ba là, Quản trị công ty (corporate governance): Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), “Quản trị công ty là một hệ thống các cơ chế và hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia các quyền và nghĩa vụ giữa các cổ đông, hội đồng quản trị, các chức danh quản lý và những người có lợi ích liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh doanh. Bằng cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó”1.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc quản lý CTCP với những vấn đề như: mô hình quản lý CTCP, cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó.

4. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để đánh giá các số liệu và thông tin thu thập được liên quan đến các vấn đề pháp lý về quản lý CTCP ở Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới. Bên cạnh đó trong phần thực trạng, khóa luận sử dụng chủ yếu số liệu từ cuộc Điều tra thực tế về quản trị CTCP do Tiến sỹ Nguyễn Đình Cung – Trưởng Ban cứu Chính sách Kinh tế Vĩ mô, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thực hiện vào cuối năm 2007 được trình bày trong cuốn sách “Công ty vốn, quản lý và tranh chấp”2 kết hợp với thông tin thu thập được qua các cuộc hội thảo tổng kết thực tiễn thi hành LDN vào các năm 2008-2009 liên quan đến quản lý CTCP. Các

1 OECD (2004), OECD Principles of Corporate Governance

2 Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty Vốn, Quản lý và Tranh chấp, Nxb Tri Thức, Hà Nội.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

phương pháp nghiên cứu trên sẽ giúp khóa luận làm sáng tỏ những luận cứ khoa học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và tăng tính thuyết phục cho các đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP.

5. Bố cục của khóa luận

Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp - 2

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, hình vẽ, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý Công ty cổ phần

Chương II: Thực trạng quản lý công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay.

Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý công ty cổ phần.

Trên đây là những thông tin khái quát về nội dung khóa luận tốt nghiệp của em. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Minh Hằng đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này. Do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên chắc chắn khóa luận của em còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô để em có được những bài học kinh nghiệm cho mình về sau.


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TY CỔ PHẦN‌‌


I. Giới thiệu chung về CTCP

1. Quá trình hình thành và phát triển của CTCP

Trên thế giới, CTCP đã ra đời và phát triển từ rất sớm, góp phần quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Một số học giả cho rằng, Công ty Đông Ấn Anh Quốc thành lập ngày 31/10/1600 và Công ty Đông Ấn Hà Lan là tổ tiên của CTCP hiện đại. Theo khảo cứu, Pháp là quốc gia đầu tiên trên thế giới công nhận CTCP về mặt pháp lý. Chế độ CTCP được quy định trong Bộ Luật Thương mại Pháp năm 1807 (Bộ Luật Napoleon), theo đó CTCP tồn tại dưới loại hình société en commandite par actions (Công ty giao vốn), cho phép những người không tham gia vào việc quản lý công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Ở Mỹ, CTCP cũng ra đời từ sớm và phát triển rất mạnh. Lúc đầu là để phục vụ cho việc xây dựng đường sắt, sau là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ Mỹ. Chính từ yêu cầu tài trợ cho các công ty xây dựng đường sắt mà thị trường chứng khoán ở New York đã phát triển. Năm 1811, bang New York đã ban hành luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về New York và tính hữu hạn đó trở thành phổ biến bởi vì bang nào không dùng đến nó thì không thu hút được vốn. Từ sự phát triển kinh tế của Mỹ, các nước Châu Âu thấy cần phải đuổi theo; vì vậy, họ đã giảm bớt sự kiểm soát đối với các công ty. Tại Anh, Luật CTCP được ban hành vào năm 1844, theo đó các CTCP muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Quy định này đã tạo động lực mạnh mẽ cho các CTCP ở Anh phát triển, góp phần đáng kể đưa nước Anh trong thời kỳ đó trở thành bá chủ về hàng hải và là một cường quốc trên thế giới.

Trải qua hàng trăm năm phát triển, cho đến nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hình thức CTCP đã có sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình CTCP “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” có tầm hoạt động rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao. Ở Việt Nam, so với các nước trên thế giới, loại hình CTCP ra đời muộn và chậm phát triển hơn. Cột mốc đánh dấu sự ra đời của CTCP ở Việt Nam là vào ngày


21/12/1990 khi Quốc hội khóa VIII thông qua hai đạo luật quan trọng là: Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân. Việc ban hành hai đạo luật này đã đặt cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam như: CTCP, CTTNHH, DNTN. Tuy nhiên, sau gần mười năm thực hiện, nhiều nội dung của hai đạo luật trên đã tỏ ra bất cập, không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nên rất cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới.

Đáp ứng nhu cầu đó, trên cơ sở hợp nhất có sửa đổi, bổ sung Luật Công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh Nghiệp Việt Nam (LDNVN) năm 1999 đã ra đời và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2000. LDN năm 2000 là nền tảng quan trọng nhất cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là sự phát triển của CTCP tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), từ đầu năm 2000 đến hết năm 2006, số lượng các CTCP ở Việt Nam đã liên tục tăng lên, tăng từ khoảng 7% tổng số các doanh nghiệp thành lập năm 2000 lên trên 20% năm 2006.

Vào năm 2005-2006 dưới áp lực và nhu cầu mạnh mẽ của việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, hàng loạt các luật có liên quan phải ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung; trong đó có các luật về đầu tư và doanh nghiệp. LDN 2005 đã ra đời trong hoàn cảnh đó, nó thay thế cho LDN 2000, Luật DNNN năm 2003, các quy định về doanh nghiệp của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006. Kể từ khi LDN 2005 có hiệu lực, lần đầu tiên chúng ta có một LDN duy nhất, áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu, người trong nước cũng như người nước ngoài có quyền tự chủ lựa chọn bất kỳ loại hình nào trong bốn loại hình doanh nghiệp do luật quy định (bao gồm: DNTN, công ty hợp danh, CTTNHH và CTCP). Ngoài ra, LDN 2005 đã xác định thời hạn bốn năm kể từ khi Luật này có hiệu lực để các doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành CTTNHH hay CTCP nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế.


Như vậy, cùng với các loại hình doanh nghiệp khác, CTCP ở Việt Nam ra đời khá muộn so với các nước trên thế giới, được hình thành và phát triển cùng với sự thừa nhận nền kinh tế thị trường có điều tiết, thể hiện sự thay đổi sâu sắc trong tư duy lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà nước ta.

2. Khái niệm và đặc điểm của CTCP

2.1. Khái niệm

CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay cho nên để tìm hiểu khái niệm CTCP trước tiên cần tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung.

Theo khoản 1 Điều 4 LDN 2005, Doanh nghiệp được định nghĩa là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Như vậy, một doanh nghiệp nói chung có những đặc điểm pháp lý cơ bản sau đây:

Thứ nhất, là tổ chức kinh tế, có tư cách chủ thể pháp lý độc lập;

Thứ hai, được xác lập tư cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo thủ tục do pháp luật quy định;

Thứ ba, có nghề nghiệp kinh doanh.

Do CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp theo LDN 2005 nên ngoài mang các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp thì trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng về số lượng thành viên, cơ cấu góp vốn, trách nhiệm pháp lý của cổ đông, tư cách pháp nhân của công ty, việc chuyển nhượng vốn và phát hành chứng khoán, CTCP theo điều 77 LDN 2005 còn được định nghĩa như sau:

“CTCP là doanh nghiệp, trong đó:

- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;

- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa;

- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;


- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CTCP được cấp GCNĐKKD đối với các cổ đông sáng lập theo quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của LDN 2005;

- Có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

- Có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”.

2.2. Đặc điểm của CTCP

Thứ nhất, về số lượng thành viên: Hầu hết pháp luật các nước đều quy định số lượng thành viên tối thiểu mà không giới hạn số lượng tối đa đối với CTCP. Ở nước ta, Luật Công ty năm 1990 quy định số lượng thành viên tối thiểu trong suốt quá trình hoạt động của CTCP là 7 và theo LDN năm 1999 và LDN năm 2005 thì số lượng này là 3. Đặc điểm này thể hiện đặc trưng cơ bản của CTCP là loại hình công ty đối vốn nên có sự liên kết của nhiều thành viên tham gia góp vốn vào CTCP.

Thứ hai, về hình thức góp vốn: Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, người mua cổ phiếu gọi là cổ đông, lợi nhuận có được hàng năm từ cổ phần gọi là cổ tức. Việc góp vốn vào CTCP được thực hiện bằng cách mua cổ phiếu, mỗi cổ đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu. Đăc điểm này cũng thể hiện đặc trưng cơ bản của CTCP là loại hình công ty đối vốn, nghĩa là khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động, các thành viên công ty hoàn toàn không quan tâm đến nhân thân người góp vốn mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ. Bởi vì đối với loại hình công ty này tư cách thành viên công ty và các quyền của cổ đông trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty được quyết định trước hết bởi số lượng các cổ phiếu của công ty mà người đó nắm giữ.

Thứ ba, về huy động vốn: Trong quá trình hoạt động của mình, CTCP được quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn theo qui định của pháp luật về phát hành chứng khoán. Luật Công ty năm 1990, LDN năm 1999 và LDN năm 2005 đều qui định rõ: đối với CTTNHH khi muốn tăng vốn điều lệ của


mình thì chỉ được thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành viên, hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó khả năng huy động vốn để tăng thêm vốn điều lệ của CTCP là rất lớn, bất cứ lúc nào khi hội đủ các điều kiện theo luật định thì CTCP cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu gọi vốn đầu tư từ các cổ đông mới. Với tính chất này, CTCP là một hình thức tổ chức đặc biệt, năng động có thể sử dụng để huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, về chuyển nhượng phần vốn góp: Trong CTCP, phần vốn góp của các cổ đông được thể hiện dưới hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là “hàng hóa” nên người sở hữu các “hàng hóa” này có thể tự do chuyển nhượng một cách dễ dàng mà không bị ràng buộc bất kỳ điều kiện nào. Các cổ đông muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số cổ phiếu của mình trong CTCP cho các cổ đông khác đều được thực hiện một cách dễ dàng theo quy định của điều lệ công ty, trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CTCP được cấp GCNĐKKD đối với các cổ đông sáng lập. Đối với CTTNHH, việc chuyển nhượng phần vốn góp bị hạn chế hơn, tức là nếu thành viên muốn chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình thì trước tiên phải chào bán phần vốn góp đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công ty với cùng điều kiện.

Như vậy, so sánh với các loại hình công ty khác thì CTCP có nhiều ưu điểm hơn, khắc phục được những hạn chế của loại hình công ty đối nhân và CTTNHH, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Với loại hình CTCP, công ty có thể huy động được nguồn vốn lớn thỏa mãn nhu cầu kinh doanh miễn là sản xuất kinh doanh của công ty có hiệu quả, mức cổ tức đủ sức hấp dẫn những người có vốn, đồng thời chia sẻ rủi ro cho các thành viên. Tuy vậy, do CTCP thường có quy mô kinh doanh lớn, số lượng thành viên đông nên việc quản lý, điều hành sẽ gặp nhiều phức tạp. Kết quả hoạt động của công ty ảnh hưởng nhiều đến sự ổn định xã hội vì công ty được công khai phát hành cổ phiếu huy động vốn trong xã hội và số đông các thành viên


góp vốn có thể là người lao động. Mặc dù công ty chịu trách nhiệm hữu hạn nhưng để bảo đảm an toàn cho xã hội và hoạt động của công ty có hiệu quả nhà nước phải có nhiều ràng buộc chặt chẽ về tổ chức, hoạt động của loại hình công ty này.

3. Những ưu thế của CTCP

So với các loại hình doanh nghiệp khác ở nước ta hiện nay thì CTCP có nhiều ưu thế hơn. Những ưu thế này xuất phát từ chính đặc điểm của CTCP và được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, CTCP là tổ chức có tư cách pháp nhân độc lập: Tức là sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào một người chủ sở hữu hay một số cổ đông nào. Với tư cách chủ thể là pháp nhân độc lập, CTCP có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định, và thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật, CTCP có thể trở thành nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong các quan hệ tranh tụng tại tòa án. Trong quá trình hoạt động, công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng chính tài sản của mình. Khi mua sắm các tài sản mới thì tài sản đó thuộc sở hữu của công ty còn các cổ đông chỉ được sở hữu cổ phần trong công ty mà không có bất kỳ quyền sở hữu nào đối với tài sản của công ty.

Thứ hai, Các cổ đông trong CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn: Khi một tổ chức hay cá nhân mua cổ phiếu của CTCP tức là họ đã chuyển dịch vốn của mình theo những phương thức nhất định vào công ty và phần vốn đó trở thành tài sản thuộc sở hữu công ty, đồng thời cổ đông sẽ được hưởng các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc góp vốn. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, các quyền và nghĩa vụ của CTCP hoàn toàn tách biệt khỏi các quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Vốn thuộc sở hữu của CTCP chính là giới hạn sự rủi ro tài chính của các cổ đông trên toàn bộ số vốn đã đầu tư vào CTCP nên trách nhiệm của những cổ đông đối với các nghĩa vụ của công ty được hạn chế trong phạm vi mà họ đã đầu tư vào cổ phiếu. Xét trên phương diện sự tách bạch về tài sản thì các cổ đông không có quyền đối với tài sản của CTCP nên họ không chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của CTCP; CTCP chịu trách nhiệm bằng chính tài sản của mình. Cả CTCP lẫn chủ nợ của công ty đều không có quyền kiện đòi tài sản của cổ đông trừ trường hợp cổ đông nợ công ty do chưa đóng đủ tiền góp vốn hoặc chưa thanh toán đủ cho công ty số tiền mua cổ

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 08/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí