Trong công trình nghiên cứu “Vận dụng quan điểm tích hợp trong việc phát triển chương trình giáo dục Việt Nam giai đoạn sau 2015”, tác giả Cao Thị Thặng
[19] đã: Tổng quan các vấn đề lí luận và thực tiễn về xu thế tích hợp trong trong chương trình giáo dục một số nước trên thế giới. Phân tích thực trạng việc vận dụng quan điểm dạy và học tích hợp trong chương trình giáo dục Việt Nam. Đề xuất giải pháp vận dụng quan điểm tiếp cận tích hợp vào việc phát triển chương trình trường phổ thông Việt Nam trong tương lai sau 2015.
Ở bậc THCS, sẽ tích hợp các môn Lịch sử, Địa lý và một số vấn đề xã hội thành môn “tìm hiểu xã hội”. So với chương trình hiện hành, nội dung Lịch sử, Địa lý và một số vấn đề xã hội của chương trình mới sẽ được sắp xếp sao cho có sự liên kết, gắn nhau giữa các nội dung. Trong mỗi năm học có một số chủ đề tích hợp nội dung của lĩnh vực Khoa học Xã hội. Nội bộ mỗi phân môn được cấu trúc lại theo quan điểm TH.
Tác giả Hoàng Thị Tuyết [29] phân tích lý thuyết tích hợp và chương trình giáo dục tích hợp và thực tiễn ứng dụng lý thuyết này ở Việt Nam trong việc xây dựng chương trình phổ thông, đặc biệt là xây dựng chương trình tiểu học sau 2015.
Tại hội thảo “Dạy tích hợp - dạy học phân hóa trong chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015” do Bộ GD-ĐT tổ chức ở TPHCM ngày 27/11/2012, nhiều tác giả đưa ra mô hình DHTH và phân hóa cho giáo dục phổ thông nước nhà dựa trên kinh nghiệm một số nước như Hàn Quốc, Pháp… và đề xuất xu hướng TH trong chương trình. Bậc THCS, ngoài các môn bắt buộc sẽ có các môn tự chọn. Nhiều nhà nghiên cứu đề xuất cần chú trọng đến việc TH trong nhiều môn học và giảm các môn học bắt buộc, tăng môn học tự chọn. Ngoài các môn học Toán, Ngữ Văn, Ngoại ngữ, Công nghệ, Giáo dục Công dân sẽ xây dựng hai môn học mới gồm môn Khoa học Tự nhiên (trên cơ sở các môn Lý, Hóa, Sinh trong chương trình hiện hành) và môn Khoa học Xã hội (trên cơ sở môn Sử, Địa trong chương trình hiện hành cùng các vấn đề xã hội).
Tác giả Đào Thị Hồng phân tích khái niệm và ý nghĩa của dạy học tích hợp và khẳng định “Muốn tiến hành có hiệu quả, cần phải chú trọng đến việc bồi dưỡng giáo viên. Giáo viên phải hiểu được thế nào là tích hợp, phải nghiên cứu chương trình, tài liệu xem nó dựa trên môn khoa học xác định nào, có thể mở rộng quan hệ tương tác với các khoa học khác như thế nào, mức độ tích hợp thể hiện ra sao?...”[14].
Tác giả Nguyễn Phúc Chỉnh [8] nghiên cứu “Hình thành năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên trung học phổ thông”. Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn và nghiên cứu biên soạn tài liệu dạy học tích hợp một số môn học (Vật lý, Sinh học, Địa lý,...) ở trường THPT, tổ chức tập huấn hình thành năng lực dạy học tích hợp cho giáo viên THPT.
Nghiên cứu tổng quan về DHTH cho phép chúng tôi khẳng định: Chưa có nghiên cứu một cách hệ thống về các biện pháp quản lí hoạt động DHTH ở các trường THCS huyện Ninh Giang. Với luận văn này, tác giả muốn góp phần phát hiện và đánh giá đúng thực trạng quản lí hoạt động DHTH ở các trường THCS, từ đó đề xuất một số biện pháp quản lí hoạt động DHTH ở các trường THCS huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Khái niệm quản lý
QL là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính lao động của xã hội QL được hình thành và phát triển cùng với sự hình thành và phát triển của xã
hội loài người, khi xã hội loài người phát triển qua các hình thái thì trình độ tổ chức và điều hành xã hội ngày càng được nâng cao.Trình độ quản lý là một trong ba yếu tố cơ bản của sự phát triển của xã hội: tri thức, sức lao động và trình độ quản lý.Nhà quản lý, đối tượng quản lý và sự cần thiết của quản lý đã được C.Mác khẳng định: “Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo để điều hoà các hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung. Một người độc tấu vĩ cẩm riêng lẻ tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Như vậy C.Mác đã chỉ ra bản chất quản lý là một hành động lao động để điều khiển lao động, một hoạt động tất yếu và quan trọng trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến ở mọi nơi,mọi lúc,mọi lĩnh vực mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hựp tác để làm một công việc nhằm một tiêu chung.
+ Khái niệm quản lý có nhiều cách hiểu, lý giải ở nhiều góc độ khác nhau. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích,có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động(nói chung là khách thể quản lý) nhằm thực hiện được mục tiêu dự kiến." [16].
Tác giả Trần Quốc Thành định nghĩa như sau:“Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội, hành vi và hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích, đúng với ý chí nhà quản lý, phù hợp với quy luật khách quan”[18].
+ Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý,nhưng trong các định nghĩa đó đều thể hiện các yếu tố chung:
- Quản lý là một thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình lao động xã hội. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội loài người tồn tại, vận hành và phát triển.
- Yếu tố con người giữ vai trò trung tâm của hoạt động quản lý.
- QL vừa là môn khoa học, vừa là một nghệ thuật. Vì vậy trong hoạt động quản lý, người quản lý phải hết sức sáng tạo, linh hoạt, mềm dẻo để chỉ đạo tổ chức tới đích. Bằng cách nào đó để người bị quản lý phải sẵn sàng tận tâm đem hết năng lực và trí tuệ sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho xã hội.
Để hoạt động quản lý được vận hành cần phải có mục tiêu đặt ra cho cả chủ thể quản lý và đối tượng quản lý làm căn cứ định hướng cho mọi hoạt động của tổ chức; Phải có nội dung, phương pháp, phương tiện, kế hoạch hành động và một môi trường nhất định.
Như vậy có thể khái quát: Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra. Sự tác động của quản lý phải bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và cho cả xã hội.
1.2.2. Quản lí dạy học
1.2.2.1. Quản lý nhà trường
Quản lý nhà trường là một vấn đề cơ bản của quản lý giáo dục, vì nhà trường là đơn vị cơ sở cấu trúc lên hệ thống giáo dục quốc dân, là nơi tổ chức thực hiện mục tiêu giáo dục.
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang, “QL nhà trường là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý đến tập thể GV, HS và cán bộ khác, nhằm tận dụng các
nguồn lực dự trữ do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có. Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ. Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới” [16, tr 8].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang quản lý nhà trường có các nội dung:
+ Tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huyđộng, can thiệp…) của chủ thể QL đến tập thể GV-HS và các cán bộ khác.
+ Nhằm tận dụng các nguồn dự trữ do Nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có.
+ Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ.
+ Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới. [16,tr18]
Từ các định nghĩa trên, ta có thể hiểu:
QL trường học là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có tính hướng đích của chủ thể QL đến tập thể GV, HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm để đào tạo lớp thanh niên thông minh, sánh tạo, năng động, tự chủ, biết sống và phấn đấu vì hạnh phúc bản thân và của xã hội. QL trường học chính là QLGD nhưng trong một phạm vi xác định của một đơn vị GD nền tảng là nhà trường.
Mục đích của QL nhà trường là đưa nhà trường từ trạng thái đang có, tiến lên một trạng thái phát triển mới. Bằng phương thức xây dựng và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực GD và hướng các nguồn lực đó vào phục vụ choviệc tăng cường chất lượng GD.
1.2.2.2. Quản lý dạy học
Quản lý dạy học trong nhà trường phổ thông bao gồm:
+ Quản lý hoạt động của GV, như: Phân công chủ nhiệm và giảng dạy, xếp và quản lý thời khóa biểu, sinh hoạt tổ chuyên môn, hội thảo và bồi dưỡng chuyên môn, thực hiện quy chế nhiệm vụ chuyên môn, xây dựng kế hoạch chuyên môn….
+ Quản lý hoạt động của học sinh, như: Lập hồ sơ học sinh, xếp lớp theo nguyện vọng, theo dõi chuyên cần, đánh giá, xếp loại học sinh, bồi dưỡng HS giỏi và phụ đạo HS yếu, kém, tổ chức kiểm tra định kì….
Quản lý dạy học trong nhà trường là một hệ thống những tác động sư phạm có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể GV, tập thể HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài trường; nhằm huy động sức lực, trí tuệ của họ vào mọi hoạt động của nhà trường, hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến.
Trong quản lý nhà trường, quản lý dạy học là hoạt động cơ bản, đặc trưng cho trường học. Quản lý dạy học là quản lý hoạt động của thầy, hoạt động của trò và những điều kiện vật chất phục vụ việc dạy và học.
1.3. Dạy học tích hợp
1.3.1. Khái niệm dạy học
Hoạt động DH là trọng tâm trong các hoạt động của nhà trường. Dạy học là một bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn, là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học, nhằm truyền và lĩnh hội tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng các phẩm chất, nhân cách người học.
Dạy học là một khái niệm chỉ hoạt động chung của người dạy và người học. Dạy học bao gồm hai hoạt động đó là hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của người học. Hai hoạt động luôn gắn bó mật thiết với nhau, tác động tương hỗ với nhau, tồn tại cho nhau và vì nhau.
Ngày nay, quan điểm dạy học hiện đại cho thấy tương tác dạy học thể hiện ở các mặt khác nhau giữa chủ thể dạy học và chủ thể học, giữa mục tiêu dạy và mục tiêu học, giữa PP dạy và PP học, giữa phương tiện dạy và phương tiện học...Tương tác sẽ làm tăng động lực của hoạt động dạy và học, nó khắc phục tính chất thụ động của hoạt động dạy và học, đặc biệt là hoạt động dạy học và tính chất đơn điệu một chiều lâu nay của quan hệ dạy và học. Người thầy phải là người hướng dẫn, điều khiển người học, giúp người học chủ động tìm tòi chiếm lĩnh khoa học một cách sáng tạo, hình thành nhân cách.
1.3.2. Khái niệm tích hợp
Tích hợp (tiếng Anh: Integration) có nguồn gốc từ tiếng La tinh: integration với nghĩa: xác lập lại cái chung, cái toàn thể, cái thống nhất trên cơ sở những bộ phận riêng lẻ.
Theo từ điển Anh - Anh (Oxford Advanced Learner's Dictionany), từ integrate có nghĩa là kết hợp những phần, những bộ phận với nhau trong một tổng thể. Những phần, những bộ phận này có thể khác nhau nhưng thích hợp với nhau.
Tóm lại: Theo Tiến sỹ Nguyễn Thị Kim Dung “Tích hợp có nghĩa là sự hợp nhất, sự kết hợp, sự hòa nhập”[9]
1.3.3. Dạy học tích hợp
Theo Tiến sỹ Phạm Thị Kim Anh, “DHTH là một cách thức dạy học chú trọng đến việc hình thành, phát triển tư duy sáng tạo và kỹ năng tổng hợp thông qua việc gắn kết, phối hợp các nội dung gần gũi liên quan, nhằm hình thành ở học sinh những năng lực giải quyết vấn đề, đặc biệt là các vấn đề đa dạng của các tình huống thực tiễn”[1]… Do đó, DHTH đòi hỏi chương trình phải được biên soạn theo logic tích hợp các kiến thức liên quan với nhau. Nội dung kiến thức phải được gắn với các tình huống của cuộc sống sau này mà học sinh có thể đối mặt.
Về mặt phương pháp, DHTH còn được hiểu là sự kết hợp giữa giảng dạy lý thuyết và thực hành trong cùng một bài dạy, kết hợp được nhiều phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trên lớp.
Tóm lại: DHTH phải được thể hiện ở cả mục tiêu, nội dung kiến thức, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá.
1.3.3.1. So sánh giữa DHTH và dạy học truyền thống
Các tác giả Zhbamova, Rule, Montgomery và Nielsen [26- tr 251-258] sau khi tiến hành khảo sát và nghiên cứu về DHTH dọc, đã đưa ra bảng so sánh - đối chiếu giữa DHTH và dạy học theo kiểu truyền thống (một môn học đơn thuần) như bảng
1.1 dưới đây:
Bảng 1.1. So sánh giữa dạy học tích hợp và dạy học truyền thống
Dạy học tích hợp | Dạy học truyền thống | |
Hoạt động trong giờ học | Làm việc theo nhóm | Làm việc cá nhân |
Phương pháp giảng dạy | Nhiều phương pháp cải tiến giảng dạy thông qua phương tiện kĩ thuật | Giảng dạy trực tiếp, ít dùng phương tiện kĩ thuật |
Phương pháp phản hồi | Nhiều phản hồi tích cực từ GV | Ít phản hồi tích cực từ GV |
Câu hỏi | Dựa theo sự lựa chọn của HS | Chỉ tập trung vào sự kết nối từ kiến thức đã học |
Vai trò của giáo viên | Hoạt động theo nhóm, liên môn, và cải thiện các hoạt động của HS | Kết nối kiến thức mới với kiến thức trước đó |
Vai trò của học sinh | Được lựa chọn, quyết định và học tập như là một thành viên trong nhóm | Theo hướng dẫn của GV, nhớ các kiến thức đã được học, làm việc một mình |
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động dạy học tích hợp ở các trường THCS huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương - 1
- Quản lí hoạt động dạy học tích hợp ở các trường THCS huyện Ninh Giang tỉnh Hải Dương - 2
- Một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Quản Lý Hoạt Động Dhth Ở Các Trường Thcs
- Quản Lý Hoạt Động Kiểm Tra, Đánh Giá Kết Quả Dạy Tích Hợp
- Khái Quát Về Giáo Dục & Đào Tạo Huyện Ninh Giang
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Bảng 1.1 cho thấy, ưu thế nổi bật của chương trình DHTH so với dạy học truyền thống. Wraga [25] nhấn mạnh rằng DHTH làm cho việc học có nhiều ý nghĩa hơn khi xét theo góc độ liên kết HS và HS, HS và GV, liên kết các môn học, độ phức hợp và giải quyết vấn đề. Trên bình diện của HS, HS cảm thấy hứng thú hơn vì được thể hiện năng lực của chính mình.
Một ưu điểm khác của chương trình DHTH là khuyến khích HS có động cơ học tập (motivation). Marshall cho rằng chương trình tích hợp chú trọng nhu cầu tiếp thu kiến thức phù hợp với nhu cầu của HS; HS sẽ được học cái mình cần và yêu thích, người ta gọi đó là “động cơ nội tại” (intrinsic motivation). Chính vì có động cơ học tập mà việc học trở nên nhẹ nhàng và thích thú hơn.
Ngoài ra, chương trình DHTH có độ phức hợp cao hơn so với chương trình dạy học truyền thống. Cho nên, như đã phân tích ở trên, vai trò của GV trở nên năng động và quan trọng hơn.
1.3.3.2. Các mức độ tích hợp trong chương trình giáo dục phổ thông
a. Truyền thống (traditional)
Từng môn học được giảng dạy, xem xét riêng rẽ, biệt lập, không có bất kì sự liên hệ, kết nối nào. Ví dụ, GV áp dụng quan điểm này trong giảng dạy từng môn như
Toán, Khoa học, nghiên cứu xã hội, nghệ thuật, ngôn ngữ... một cách riêng biệt, chỉ trong khuôn khổ kiến thức của môn học mình dạy. Các vấn đề được giải quyết chỉ trên cơ sở những kiến thức, kĩ năng của chính lĩnh vực bộ môn đó.
b. Kết hợp/lồng ghép (fusion)
Một nội dung nào đó được kết hợp vào chương trình đã có sẵn. Ở nước ta, trong nhiều năm qua đã kết hợp, lồng ghép các chủ đề về dân số, môi trường, an toàn giao thông, sức khỏe sinh sản, kĩ năng sống... vào các lĩnh vực môn học như Địa lý, Sinh học, giáo dục đạo đức và công dân...
c. Tích hợp trong một môn học
Tích hợp trong nội bộ môn học. Tích hợp những nội dung của các phân môn, các lĩnh vực nội dung thuộc cùng một môn học theo những chủ đề, chương, bài cụ thể nhất định. Ví dụ: Tích hợp nội dung dạy tiếng Việt, dạy làm văn với đọc hiểu văn bản trong môn Ngữ văn.
Thực chất của DHTH trong dạy học là vửa dạy nội dung lý thuyết và thực hành trong cùng một bài dạy. Với cách hiểu đơn giản như vậy là chưa đủ mà đằng sau nó là cả một quan điểm giáo dục theo mô hình năng lực.
d. Đa môn (multidisciplinary)
Ở đây các môn học là riêng biệt nhưng có những liên kết có chủ đích giữa các môn học và trong từng môn bởi các chủ đề hay các vấn đề chung
Khi HS học, nghiên cứu về một vấn đề nào đó các em đồng thời được tiếp cận từ nhiều bộ môn khác nhau. Từ cách tiếp cận đa môn này, giáo viên không cần phải thay đổi nội dung giảng dạy bộ môn của mình. Nội dung và đánh giá vẫn nguyên theo bộ môn. Chỉ có HS được mong đợi là tạo ra những kết nối giữa các lĩnh vực bộ môn, tức là các em sẽ giải quyết vấn đề dựa trên kiến thức thu được ở nhiều bộ môn khác nhau. Đôi khi các tiếp cận đa môn đã tạo ra những liên kết rất mạnh và khi đó thì những ngăn cách bộ môn bị mờ đi và chương trình chuyển sang lãnh địa liên môn (interdisciplinary).
d. Liên môn (interdisciplinary)
Các môn học được liên hợp với nhau và giữa chúng có những chủ đề, vấn đề, những khái niệm lớn và những ý tưởng lớn chung.