3.1.2. Khó khăn của hình thức liên doanh
- Lợi nhuận bị phân chia do phải chia sẻ với cả đối tác nước ngoài.
- Những khác biệt trong văn hóa kinh doanh và quản lý giữa các doanh nghiệp thành viên sẽ dẫn đến các bất đồng như khó đi tới hòa nhập thành một chiến lược kinh doanh chung cho toàn công ty, mục tiêu kinh doanh của từng bên có thể trái ngược nhau, từ đó gây ra những rắc rối trong phối hợp và kiểm soát hoạt động của liên doanh. Đây chính là nguyên nhân dẫn tới những bất đồng tiềm tàng trong nội bộ và nguy cơ hủy bỏ cam kết giữa các thành viên.
- Bất lợi chủ yếu trong liên doanh là vấn đề liên quan tới tỷ lệ góp vốn. Tỷ lệ góp vốn có thể dẫn tới mâu thuẫn và tranh chấp quyền kiểm soát giữa các doanh nghiệp đầu tư. Nếu đối tác nào chiếm dưới 50% vốn thì phải để cho đối tác chiếm đa số vốn quyền đưa ra quyết định. Nếu hai bên chiếm 50 - 50 vốn trong hội đồng quản trị, sẽ rất khó khăn để đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, thậm chí là đưa được ra quyết định.
- Trong trường hợp liên doanh giữa một bên là đối tác nước ngoài với một bên là đối tác trong nước, khi kiến thức của đối tác nước ngoài về điều kiện thị trường địa phương tăng lên, họ không muốn phụ thuộc vào đối tác trong nước nữa và muốn chấm dứt liên doanh để thành lập doanh nghiệp 100% vốn của mình tại nước sở tại. Như vậy, quyền lực của phía nước ngoài ngày càng gia tăng trong khi đó đối tác trong nước mất dần lợi thế và dễ dẫn tới đổ vỡ liên doanh.
3.2. Thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Khi thấy các điều kiện chín muồi cho việc khai thác các nguồn lực ở thị trường nước sở tại, đồng thời mong muốn thực hiện mục tiêu củng cố vị trí của mình trên thị trường thế giới, doanh nghiệp sẽ tiến hành thành lập doanh nghiệp độc lập tại thị trường nước ngoài. Việc thành lập công ty con biểu thị
sự chiếm lĩnh thị trường nước ngoài một cách vững chắc của các doanh nghiệp. Các công ty con có tư cách pháp nhân đầy đủ, được quyền tiến hành các hoạt động kinh doanh một cách độc lập nhằm khai thác tối đa những nguồn lực và tăng tối đa lợi nhuận trên thị trường nước ngoài.
3.2.1. Các cách tiến hành thành lập công ty con ở nước ngoài
Việc thành lập công ty con ở nước ngoài có thể bằng nhiều cách, tùy thuộc vào năng lực, chiến lược thâm nhập thị trường của doanh nghiệp và điều kiện thị trường, cụ thể:
Có thể bạn quan tâm!
- Phương thức thâm nhập thị trường thế giới của công ty Coca-cola và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam - 1
- Phương thức thâm nhập thị trường thế giới của công ty Coca-cola và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam - 2
- Lợi Thế Đối Với Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Trực Tiếp
- Rủi Ro Môi Trường Chính Trị Và Môi Trường Chung
- Phương Thức Thâm Nhập Của Coca-Cola Vào Một Số Thị Trường Trên Thế Giới
- Phương Thức Thâm Nhập Thị Trường Trung Quốc Của Coca-Cola
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Thứ nhất: Lập dự án thành lập doanh nghiệp theo luật đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà theo hình thức 100% vốn nước ngoài. Với cách này, doanh nghiệp cần phải có những điều kiện theo luật đầu tư nước ngoài của nước sở tại cho phép thành lập.
Thứ hai: Tìm các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thị trường nước ngoài, mua gọn cả doanh nghiệp và làm thủ tục chuyển quyền sở hữu, hoặc mua nốt phần vốn đóng góp còn lại của những đối tác khác trong các doanh nghiệp liên doanh để chuyển thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Mua lại công ty nước ngoài có một số lợi thế như: cho phép công ty thâm nhập nhanh, sử dụng những kênh phân phối hiện tại và có thể sử dụng tên nhãn mác đã được thiết lập cùng với uy tín của công ty cũ. Trong một số trường hợp, hệ thống quản lý hiện tại vẫn được duy trì cho phép công ty có kinh nghiệm để thích ứng với môi trường và thị trường nước ngoài. Điều này có thể là những thuận lợi khi công ty có ít chuyên gia quản trị quốc tế hoặc chưa hiểu biết nhiều về môi trường và thị trường nước ngoài. Mua lại công ty nước ngoài còn rất phù hợp ở những ngành công nghiệp cạnh tranh cao và những ngành có ít cơ hội thâm nhập, hoặc có nhiều hàng rào ngăn cản lớn. Ví dụ, Electrolux - Thụy Điển đã thâm nhập vào thị trường Mỹ bằng cách mua lại một công ty hút bụi Mỹ với nhãn hiệu như Frigidaire, Kelvinator. Nhờ mua
công ty mà Electrolux đã thâm nhập nhanh vào thị trường Mỹ với một mạng lưới phân phối gồm nhiều trung gian thương mại.
Thứ ba: Mua theo “phương án toàn bộ” (package deal). Đây là hình thức mua thiết bị toàn bộ, theo đó người bán phải lo liệu từ khâu lựa chọn địa điểm xây dựng, vận hành và quản lý các hoạt động kinh doanh, hạch toán các chi phí sau đó nộp lợi nhuận cho người mua.
3.2.2. Thuận lợi
- Việc thành lập công ty con sở hữu hoàn toàn sẽ làm giảm thiểu rủi ro gắn liền với việc mất khả năng kiểm soát và giám sát công nghệ. Hơn nữa, công ty có thể kiểm soát chặt chẽ hoạt động ở các thị trường khác nhau và do đó, nâng cao khả năng phối hợp toàn cầu, thực hiện lợi thế qui mô, lợi thế vị trí và tác động kinh nghiệm cũng như hỗ trợ cạnh tranh giữa các thị trường.
- Khai thác được những lợi thế so sánh và có ưu thế hơn so với nước mình trên thị trường nước ngoài. Ngoài ra, doanh nghiệp còn có thể tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, tránh các hàng rào thuế quan và hạn ngạch, chuyển giao các kinh nghiệm và công nghệ sản xuất.
- Doanh nghiệp được toàn quyền quyết định các hoạt động của mình, không có sự tham gia của các đối tác khác.
- Lợi nhuận của doanh nghiệp không bị san sẻ.
- Doanh nghiệp có điều kiện để củng cố thị phần tại thị trường nước ngoài và là căn cứ, cơ sở để mở rộng thị trường ra các khu vực lân cận.
3.2.3. Khó khăn
Khi thiết lập công ty trên thị trường mới thường xảy ra rủi ro, nên vào thời điểm khởi đầu, các doanh nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng để tránh tối đa những rủi ro phát sinh. Đây là phương thức đầu tư tốn kém nhất để mở rộng thị trường. Công ty mẹ phải chịu toàn bộ chi phí và rủi ro của việc thành lập các nhà máy ở nước ngoài. Đó có thể là những rủi ro liên quan tới vấn đề
kinh tế, chính trị của nước sở tại như trưng thu, trưng dụng, quốc hữu hoá, hay hạn chế tự do chuyển vốn, lao động… Hay đó cũng có thể là những rủi ro về thuế quan hay những điều chỉnh, hạn chế việc tự do hoạt động của công ty nước ngoài.
3.3. Công-xoóc-xi-om (Consortium)
Công-xoóc-xi-om được xem như liên doanh nhưng loại trừ hai đặc điểm là: có số lượng lớn các công ty cùng tham gia và hoạt động tại quốc gia không thuộc nước của thành viên nào. Công-xoóc-xi-om được phát triển nhằm tận dụng triệt để nguồn tài chính lớn và khả năng quản lý cao, từ đó giảm thiểu được rủi ro và tăng lợi nhuận.
III. VAI TRÒ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC LỰA CHỌN PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
1. Vai trò của các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế đối với doanh nghiệp
Việc mở rộng hoạt động ra thị trường thế giới cho phép các doanh nghiệp lớn hoặc nhỏ tăng tỷ lệ lợi nhuận của mình bằng các cách mà các doanh nghiệp trong nước không có. Đối với doanh nghiệp, việc lựa chọn phương thức thích hợp thâm nhập vào thị trường nước ngoài có vai trò rất quan trọng:
1.1. Doanh nghiệp có thể đạt mức doanh số lớn hơn
Các doanh nghiệp hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng biệt của mình. Các khả năng riêng biệt của doanh nghiệp được định nghĩa là những điểm mạnh duy nhất cho phép doanh nghiệp đạt được hiệu quả, chất lượng, đổi mới, hoặc sự nhạy cảm với khách hàng cao hơn.
Những điểm mạnh này thường được thể hiện trong sản phẩm đưa ra mà các doanh nghiệp khác khó làm theo hoặc bắt chước. Như vậy, các khả năng riêng biệt tạo nền tảng cho lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Chúng làm cho doanh nghiệp có thể hạ thấp chi phí trong việc tạo ra giá trị và hoặc thực hiện tạo ra giá trị theo cách dẫn đến sự khác biệt hóa và đặt giá cao hơn.
Với các khả năng riêng biệt có giá trị, các doanh nghiệp thường có thể đạt mức doanh số khổng lồ bằng việc thực hiện những khả năng riêng biệt đó và bằng các sản phẩm sản xuất ra cho các thị trường nước ngoài mà ở đó các đối thủ bản địa thiếu các khả năng và sản phẩm tương tự.
Hơn nữa, do số lượng, sức mua và khả năng thanh toán của khách hàng trên thị trường thế giới lớn hơn thị trường ở từng quốc gia, nên khi tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế cũng tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng nhanh doanh số bán ra đối với các sản phẩm và dịch vụ của mình.
1.2. Doanh nghiệp có thể thực hiện được lợi thế theo vị trí
Lợi thế theo vị trí là lợi thế phát sinh từ việc thực hiện hoạt động tạo ra giá trị ở vị trí tối ưu đối với hoạt động đó, bất kể nơi nào trên thế giới (với các chi phí vận chuyển và các hàng rào thương mại cho phép).
Thực hiện một hoạt động tạo ra giá trị ở vị trí tối ưu có thể giúp doanh nghiệp: hạ thấp chi phí của việc tạo ra giá trị, giúp doanh nghiệp đạt được vị thế cạnh tranh nhờ chi phí thấp, hoặc giúp doanh nghiệp khác biệt hóa sản phẩm của mình và đặt giá cao. Do đó, các nỗ lực hiện thực hóa lợi thế vị trí nhất quán với các chiến lược ở cấp doanh nghiệp nói chung về chi phí thấp và sự khác biệt hóa sản phẩm.
1.3. Tham gia vào hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp hạ thấp chi phí
Việc tham gia vào hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp hạ thấp chi phí nhờ có được lợi thế theo qui mô và hiệu ứng đường cong kinh nghiệm. Lợi thế qui mô cho phép doanh nghiệp giảm chi phí cố định của một sản
phẩm do chia chi phí cố định theo mức sản lượng lớn. Tác động của đường cong kinh nghiệm sẽ làm giảm chi phí khả biến đơn vị sản phẩm do nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của người lao động.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế theo qui mô có thể không có được nếu thị hiếu của khách hàng và những đặc điểm khác ở các nước khác nhau đòi hỏi một số điều chỉnh sản phẩm - phụ thuộc vào các sản phẩm liên quan và phương pháp sản xuất ra sản phẩm đó. Hơn nữa, cần lưu ý rằng chi phí cho việc thâm nhập vào thị trường như chi phí quảng cáo, xúc tiến và thiết lập mạng lưới phân phối… có thể vượt quá những tiết kiệm trong sản xuất.
Kinh doanh ở các thị trường nước ngoài có thể thúc đẩy đường cong kinh nghiệm nghĩa là đạt được hiệu quả cao, giảm chi phí trong trường hợp việc kinh doanh đòi hỏi cần có kinh nghiệm về một số loại hoạt động chức năng hoặc một số dự án nào đó. Những tác động này rất khác nhau đối với việc tăng hiệu quả kinh tế theo qui mô và cả việc có nhiều kinh nghiệm hơn nhờ sản xuất một số lượng sản phẩm với đầu ra lớn hơn.
1.4. Kích thích các doanh nghiệp đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất
Công nghệ chính là nền tảng để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc nghiên cứu, tiếp thu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ, thiết bị là yếu tố quyết định trong việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và nền kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay, việc phát triển doanh nghiệp gắn liền với đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Thâm nhập vào một thị trường mới tức là thị trường một loại sản phẩm nào đó của doanh nghiệp được mở rộng, doanh nghiệp cần đưa ra những biện
pháp nhằm tiến hành sản xuất với qui mô lớn hơn trước, điều này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Phần lớn các trường hợp đổi mới công nghệ xuất phát từ nhu cầu. Do sự khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội mà nhu cầu của người tiêu dùng nước sở tại không giống nhu cầu của người tiêu dùng nội địa. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp không thể cung cấp những sản phẩm giống hệt sản phẩm được cung cấp trong thị trường nội địa mà cần tiến hành nghiên cứu tìm ra điểm khác biệt, từ đó tiến hành đổi mới công nghệ để phục vụ nhu cầu đó.
Một nhân tố nữa thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ là sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh. Sự cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường quốc tế rất mạnh mẽ và quyết liệt. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải giành được ưu thế trước đối thủ cạnh tranh về mặt giá cả, chất lượng sản phẩm và uy tín. Đây là một thách thức đòi hỏi doanh nghiệp cần phải biết cách tổ chức sản xuất hợp lý, xây dựng cho mình một thương hiệu mạnh, với những sản phẩm đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng tốt nhất. Và một trong những phương pháp giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh thị phần của đối thủ cạnh tranh đó là đổi mới công nghệ sản xuất.
1.5. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ðể đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách, chủng loại của sản phẩm đòi hỏi người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Vươn ra thị trường thế giới sẽ giúp doanh nghiệp phát huy quyền làm chủ của mình. Điều này sẽ tạo ra những chuyển biến vượt bậc về chất lượng lực lượng lao động của doanh nghiệp thông qua đào tạo, khai thác các nguồn lực năng động và nhờ đó doanh nghiệp cũng tiếp thu, học hỏi được các kỹ năng quản lý.
Ngoài ra, kinh doanh ở thị trường nước ngoài sẽ giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có ý tưởng mới mẻ hay những phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề. Từng cá nhân sẽ phát triển kỹ năng quản lý chung của họ và nâng cao hiệu suất cá nhân. Họ sẽ trở nên năng động hơn và mở rộng tầm nhận thức hơn.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường thế giới của các doanh nghiệp
Sau khi lựa chọn thị trường thâm nhập, vấn đề quan trọng đặt ra đối với công ty kinh doanh là quyết định các phương thức thâm nhập thị trường đã lựa chọn. Về nguyên tắc, lựa chọn thị trường và phương thức thâm nhập là những quyết định độc lập, tuy nhiên chúng có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau. Lựa chọn phương thức thâm nhập phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như đặc điểm của nước lựa chọn, đặc điểm của sản phẩm, mục tiêu của công ty, chiến lược kinh doanh của công ty… Ba nhân tố là đặc điểm của nước lựa chọn thâm nhập, hàng rào bảo hộ mậu dịch, đặc điểm thị trường sản phẩm là những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường quốc tế. Hai nhân tố còn lại gồm mục tiêu của công ty và chiến lược của công ty là những nhân tố nội tại góp phần làm ảnh hưởng tới quyết định lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường của công ty.
2.1. Những đặc điểm của nước lựa chọn thâm nhập
Các thông số cần phải được xem xét trong đặc điểm của nước lựa chọn để thâm nhập đó là: môi trường kinh tế, những rủi ro về môi trường chính trị và môi trường chung, hạ tầng cơ sở, môi trường văn hóa và môi trường công nghệ. Mức độ quan trọng và bản chất của mỗi thông số trên phụ thuộc vào các nước được lựa chọn thâm nhập, các công ty kinh doanh cụ thể khác nhau và các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ.