Lợi Thế Đối Với Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Trực Tiếp

1.2. Xuất khẩu trực tiếp

Xuất khẩu trực tiếp là hình thức tham gia thị trường quốc tế khá phổ biến với mọi doanh nghiệp trên thế giới, trong đó các doanh nghiệp tiến hành đưa hàng hóa sang thị trường nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh giữa các quốc gia, nhằm nâng cao lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh.

1.2.1. Lợi thế đối với doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp

- Doanh nghiệp trực tiếp tiếp xúc với thị trường nước ngoài, do vậy có thể nắm bắt được tình hình thị trường, thường xuyên cập nhật những nhu cầu mới và thị hiếu thay đổi của khách hàng để kịp thời cải tiến sản phẩm, thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đó.

- Doanh nghiệp xuất khẩu có thể chủ động đối phó với những diễn biến trên từng thị trường nước ngoài.

- Doanh nghiệp không phải chịu những chi phí xuất khẩu trung gian và lợi nhuận không bị chia sẻ như hình thức xuất khẩu gián tiếp.

1.2.2. Điểm bất lợi của hình thức xuất khẩu trực tiếp

- Doanh nghiệp phải dàn trải các nguồn lực của mình trên phạm vi thị trường rộng lớn phức tạp hơn, phải chấp nhận môi trường cạnh tranh quốc tế khốc liệt hơn và nhiều rủi ro hơn.

- Doanh nghiệp mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân lực, sử dụng nhiều nguồn tài lực hơn xuất khẩu gián tiếp. Do đó, để có thể thâm nhập thành công thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp cần phải lựa chọn kỹ thị trường sao cho phù hợp với tiềm lực và khả năng của mình.

- Hình thức này đòi hỏi chi phí tốn kém, do vậy chỉ thực hiện khi có đủ số lượng hàng lớn. Hơn nữa, các hàng rào thuế quan hoặc chi phí vận chuyển cao cũng có thể làm cho việc xuất khẩu trở nên không kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

1.2.3. Trường hợp áp dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp

- Doanh nghiệp đã nghiên cứu thị trường và có đầy đủ những thông tin cần thiết nhằm đảm bảo chắc chắn cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả như dự kiến.

Phương thức thâm nhập thị trường thế giới của công ty Coca-cola và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam - 3

- Doanh nghiệp phải có đủ nguồn lực để mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài.

- Doanh nghiệp có khả năng quản lý, điều hành hoạt động xuất khẩu hiệu quả.

2. Hình thức kết hợp giữa hoạt động trong và ngoài nước

2.1. Cấp giấy phép (Licensing)

Cấp giấy phép là một hình thức hợp đồng nhượng quyền sử dụng sản phẩm trí tuệ để tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Thông thường đối tượng của hợp đồng mua bán giấy phép hiện nay là:

- Bằng sáng chế phát minh (Patent),

- Quyền tác giả hay tác quyền (Copyrights),

- Nhãn hiệu thương mại (Trademarks),

- Các qui trình công nghệ (Technological Process),

- Bí quyết kỹ thuật (Know how)… [12,234].

2.1.1. Thuận lợi của hình thức Licensing

- Doanh nghiệp được cấp phép có cơ hội nhanh chóng tiếp cận thị trường nước ngoài, giảm thiểu rủi ro, không phải đầu tư nhiều thời gian và tiền bạc do chi phí bỏ ra thấp. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể dễ dàng áp dụng chiến lược này trong việc mở rộng kinh doanh quốc tế nhằm duy trì được mục tiêu doanh số và lợi nhuận của mình.

- Doanh nghiệp cấp phép vẫn có thể thu được một khoản tiền không nhỏ sau thời gian sử dụng sản phẩm trí tuệ của mình với mức lợi nhuận và hiệu quả cao nhất. Rõ ràng cấp phép đảm bảo cho các công ty xuyên quốc gia

khai thác triệt để sản phẩm trí tuệ, tăng thêm mức đầu tư phát triển công nghệ mới, tiếp tục nâng cao lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh quốc tế.

- Một doanh nghiệp với công nghệ, bí quyết và có trình độ chất xám cao có thể sử dụng các thỏa ước cấp giấy phép và đổi lại có một khoản thu dành cho việc đầu tư vào các danh mục khác.

- Doanh nghiệp có thể đẩy mạnh việc phổ biến các sản phẩm và công nghệ mới trên thị trường nước ngoài. Hợp đồng cấp phép được thiết lập trong bối cảnh toàn bộ chiến lược của doanh nghiệp có tính đến sự mở rộng và phát triển thị trường thế giới trong thời gian dài. Do đó với doanh nghiệp có kế hoạch thâm nhập thị trường quốc tế, cấp giấy phép là phương thức thích hợp để thâm nhập nhanh vào những thị trường có qui mô nhỏ. Điều này tạo điều kiện cho doanh nghiệp tập trung nguồn lực, thâm nhập vào những thị trường khác có qui mô lớn hơn.

2.1.2. Khó khăn của hình thức Licensing

- Doanh nghiệp cấp phép không còn độc quyền về sở hữu trí tuệ ngay sau khi đã cấp phép. Vì vậy, doanh nghiệp được cấp phép sẽ trở thành đối thủ cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp cấp phép trên thị trường.

- Doanh nghiệp cấp phép gặp khó khăn trong việc kiểm soát khối lượng bán của công ty nước ngoài, điều này ảnh hưởng tới lệ phí bản quyền.

- Doanh nghiệp cấp phép khó có thể kiểm soát được tiêu chuẩn sản phẩm và chất lượng dịch vụ ở thị trường nước ngoài. Điều này có thể làm giảm uy tín, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế.

2.2. Xuất khẩu có sự trợ giúp của văn phòng đại diện

Văn phòng đại diện hoạt động tại thị trường nước ngoài sẽ giúp doanh nghiệp tập trung hơn nữa vào việc nghiên cứu thị trường, tìm ra phương pháp hiệu quả nhất để củng cố vị trí của doanh nghiệp trên thị trường mục tiêu. Thông thường, văn phòng đại diện chỉ có chức năng nghiên cứu, tư vấn và

thực hiện các giao dịch hành chính ban đầu chứ không có chức năng kinh doanh. Hình thức này có những thuận lợi và khó khăn sau:

2.2.1. Thuận lợi

- Đặt văn phòng đại diện tức là doanh nghiệp đã trực tiếp tiếp cận với thị trường, do vậy dễ dàng nắm được tình hình, những diễn biến trên thị trường, từ đó có những phản ứng mang tính chiến lược và hiệu quả hơn.

- Doanh nghiệp nắm được thông tin về thị trường, khách hàng và đối thủ cạnh tranh, từ đó có những đóng góp cho việc xây dựng chiến lược thâm nhập vào thị trường.

- Văn phòng đại diện có thể thực hiện các nghiệp vụ marketing trên thị trường nước ngoài phục vụ cho công tác thâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.

2.2.2. Khó khăn

- Do văn phòng đại diện không tiến hành các hoạt động kinh doanh, trong khi đó để đảm bảo cho hoạt động của nó đòi hỏi một chi phí cao so với các chi phí tại chỗ nên bước đầu làm tăng chi phí hành chính của doanh nghiệp.

- Phạm vi hoạt động bị hạn chế và nhiều khi doanh nghiệp bị lệ thuộc vào sự năng động và tính hiệu quả của văn phòng đại diện.

2.3. Gia công quốc tế

Gia công trong thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận gia công sử dụng một phần hoặc toàn bộ nguyên liệu, vật liệu của bên đặt gia công để thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình sản xuất theo yêu cầu của bên đặt gia công để hưởng thù lao (Luật thương mại 2005 - điều 178). Loại hình này có một số đặc trưng khác biệt so với hình thức xuất khẩu là:

- Quyền sở hữu đối với nguyên vật liệu và hàng hóa không thay đổi, vì vậy không chỉ bên nhận gia công mà bên đặt gia công cũng phải quan tâm đến

việc bảo quản hàng hóa, nguyên vật liệu trong suốt quá trình sản xuất và gia công lắp ráp hàng hóa.

- Thực chất gia công là việc bên đặt gia công mua sức lao động tại nước nhận gia công để nâng cao tỷ suất lợi nhuận của mình. Đó là hình thức khai thác những lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế về giá cả sức lao động. Tuy nhiên, việc mua bán sức lao động lại gắn liền với quá trình sản xuất hàng hóa, do vậy trong khi thực hiện hoạt động này đòi hỏi những kĩ năng rộng hơn cả ở lĩnh vực sản xuất và thương mại.

Chính vì những đặc trưng trên mà các nhà kinh doanh trên thị trường hàng hóa thế giới đã sử dụng hình thức này như một công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài có hàng rào bảo hộ chặt chẽ.

2.4. Nhượng quyền thương mại (Franchising)

Hoạt động nhượng quyền thương mại trên thế giới đã có từ lâu. Khi nhắc tới hoạt động nhượng quyền thương mại thành công, người ta thường nghĩ tới hoạt động nhượng quyền của McDonald’s, Kentucky Fried Chicken (KFC), hay khách sạn Hilton…

Theo luật thương mại Việt Nam năm 2005 (điều 284): Nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận nhượng quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

1. Việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền qui định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền;

2. Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận nhượng quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh.

Hình thức này có một số ưu điểm và nhược điểm sau:

2.4.1. Một số ưu điểm của hình thức Franchising

- Franchising là hình thức có thể kết hợp tối đa những lợi thế so sánh của cả hai bên để nâng cao tính cạnh tranh cho sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ và như vậy tạo khả năng thành công lớn hơn khi thực hiện. Cả hai bên có thể khai thác những lợi thế của nhau để phục vụ cho kết quả kinh doanh kể cả những lợi thế vô hình như uy tín của bên chuyển nhượng, vị trí cửa hàng của bên nhận chuyển nhượng.

- Hai bên thực hiện việc quản lý và bàn bạc trao đổi những kinh nghiệm, những sáng kiến trong hoạt động marketing nhằm thích ứng các hoạt động kinh doanh của mình với những điều kiện thay đổi của thị trường.

- Với hình thức thâm nhập này, cùng lúc doanh nghiệp có thể phát triển thương hiệu ở nhiều thị trường, hạn chế rủi ro và tiết kiệm thời gian.

- Lợi thế nổi bật nhất của hình thức Franchising là chi phí. Thứ nhất, về cơ cấu chi phí: Franchising giảm thiểu được hàng loạt các yếu tố chi phí, như phí chuyên chở và bảo quản nguyên liệu do khai thác tại chỗ, các chi phí thuế quan (xuất nhập khẩu), giảm chi phí về tiền lương do chi phí thuê lao động tại chỗ thấp… Thứ hai, về tổng giá thành: do sự phát triển nhanh của Franchising gắn liền với việc mở rộng về qui mô kinh doanh quốc tế nên việc mở rộng qui mô cũng đồng nghĩa với quá trình giảm giá thành trên một đơn vị sản phẩm.

2.4.2. Khó khăn của hình thức Franchising

Bất lợi lớn nhất của Franchising đó là vấn đề kiểm soát chất lượng. Nền tảng của thỏa thuận Franchising là thương hiệu nổi tiếng của doanh nghiệp chuyển giao, là chuyển thông tin đến người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, bên nhận chuyển giao nước ngoài có thể không quan tâm về chất lượng như bên chuyển giao đề nghị, kết quả là chất lượng sản phẩm kém, doanh thu thấp và làm giảm uy tín của bên chuyển giao trên thị trường nước ngoài.

2.5. Đặt chi nhánh của doanh nghiệp tại nước ngoài

Đặt chi nhánh của doanh nghiệp ở nước ngoài là doanh nghiệp bắt đầu chuyển các hoạt động kinh doanh của mình ra nước ngoài, do vậy xác suất rủi ro lớn hơn, cuộc cạnh tranh cũng bắt đầu khốc liệt hơn. Đây là một bước thử thách có tính toàn diện cho hoạt động kinh doanh ở nước ngoài của doanh nghiệp.

2.5.1. Thuận lợi

- Chi nhánh có thể khai thác những lợi thế so sánh, tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm mang lại lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.

- Chi nhánh có thể thay mặt doanh nghiệp thực hiện những biện pháp bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.

2.5.2. Khó khăn

- Chi phí cho việc thành lập chi nhánh ở nước ngoài lớn, dàn trải và đòi hỏi doanh nghiệp phải có đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và đủ sức tin cậy.

- Hoạt động của chi nhánh chưa được hạch toán một cách độc lập, do vậy không đảm bảo khả năng linh hoạt cho doanh nghiệp trên thị trường nước ngoài.

3. Hình thức đầu tư trực tiếp

Đây là hình thức mà các doanh nghiệp đưa vốn đầu tư trực tiếp vào thị trường nước ngoài nhằm khai thác tối đa những lợi thế trên thị trường đó. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài cụ thể là: thành lập công ty liên doanh, công ty con 100% vốn nước ngoài và Công-xoóc-xi-om (Consortium).

3.1. Công ty liên doanh

Khi xét thấy thị trường nước ngoài có những lợi thế về kinh tế, xã hội, tự nhiên… so với các điều kiện đó của nước mình, lãnh đạo doanh nghiệp quyết định tạo lập cơ sở kinh doanh trên thị trường đó. Tuy nhiên, hình thức tiếp theo là gì nếu doanh nghiệp nhận thấy:

- Tự mình thì không đủ vốn hoặc tiềm lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh trên thị trường nước ngoài.

- Có nhiều rủi ro kinh doanh trên thị trường nước ngoài hơn vì mình là “người nước ngoài”.

- Khi ở thị trường đó, luật pháp bắt buộc các công ty nước ngoài muốn kinh doanh trong lĩnh vực đó phải liên doanh với một công ty nước sở tại.

Khi đó biện pháp tốt nhất đối với doanh nghiệp là thành lập một liên doanh ở nước ngoài. Dạng phổ biến nhất của liên doanh là sự tham gia góp vốn của hai đối tác. Ví dụ một công ty có thể liên doanh với một công ty nước ngoài. Thông thường công ty nước ngoài cung cấp các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, nhãn mác sản phẩm, uy tín của mình. Đối tác địa phương cung cấp hệ thống phân phối, kinh nghiệm và sự hiểu biết về thị trường nội địa.

3.1.1. Thuận lợi của hình thức liên doanh

- Công ty có thể kiểm soát được quá trình sản xuất, các hoạt động marketing ở thị trường nước ngoài.

- Khai thác được tối đa các khả năng của đối tác địa phương. Công ty có lợi ích từ kiến thức của đối tác địa phương như điều kiện cạnh tranh ở nước sở tại, văn hóa, ngôn ngữ, hệ thống chính trị, hệ thống kinh doanh.

- Chia sẻ những rủi ro trong quá trình kinh doanh, tạo ra cộng đồng trách nhiệm trong quá trình điều hành hoạt động của công ty với đối tác ở nước sở tại.

- Khai thác và tận dụng được các ưu đãi của nước chủ nhà để thâm nhập vào thị trường nước sở tại.

- Tham gia liên doanh, công ty dần dần học hỏi được kinh nghiệm, nắm bắt được nhu cầu của thị trường, phát hiện ra các đối thủ cạnh tranh, thiết lập quan hệ trực tiếp với khách hàng ở thị trường nước ngoài, tạo tiền đề để công ty thành lập chi nhánh sở hữu hoàn toàn của mình tại nước ngoài.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 07/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí