*Festival Huế: Diễn ra từ 26/4 -2/5/2019, Festival Nghề truyền thống Huế 2019 là sự kiện kinh tế và văn hóa lớn, nhằm tôn vinh những giá trị tinh hoa của di sản, nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh các ngành nghề thủ công truyền thống, gắn các sản phẩm truyền thống; đồng thời tăng cường mối quan hệ liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, gắn các sản phẩm nghề truyền thống với du lịch, với thị trường tiêu thụ trong nước và quốc tế. Mỗi kỳ Festival nghề truyền thống Huế được tổ chức thành công đã góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu xây dựng TP. Huế xứng đáng là thành phố Văn hóa Asean, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.
Lễ hội đương đại ngày càng được phổ biến và diễn ra quanh năm, ở khắp các vùng miền của Tổ quốc; phong phú, đa dạng cả về tên gọi, số lượng, quy mô, tầm vóc, phạm vi, nội dung và hình thức thể hiện, ngay một lúc khó có thể thống kê đầy đủ và đánh giá một cách thực sự toàn diện, chính xác tác động và hiệu quả kinh tế - xã hội của lễ hội đương đại nói chung và của từng lễ hội cụ thể nói riêng.
Sự ra đời của lễ hội đương đại là sự cần thiết của một đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và phát triển, là sự sáng tạo nhằm đáp ứng các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, là cơ hội để quảng bá hình ảnh đất nước, con người, tiềm năng, thế mạnh của địa phương và đất nước với bạn bè quốc tế. Lễ hội đương đại cũng góp phần làm giàu thêm kho tàng hơn 8.000 lễ hội các loại hàng năm của cả nước. Một số lễ hội đương đại đã từng bước tạo dựng được thương hiệu, mang bản sắc riêng của mình và có khả năng phát triển bền vững.
Lễ hội Văn hóa, thể thao và du lịch
Là lễ hội được tổ chức để quảng bá về văn hóa, thể thao, du lịch như festival, liên hoan văn hóa, thể thao, du lịch; Tuần văn hóa thể thao và du lịch; Tháng văn hóa, thể thao và du lịch…Mục đích của các lễ hội này là nhằm quảng bá, phát triển du lịch thành ngành nghề kinh tế mũi nhọn, tiếp thị sản phẩm du lịch, xúc tiến du lịch, mời goị đầu tư, mở rộng giao lưu văn hóa…
Lễ hội văn hóa-xã hội là hoạt động giới thiệu, quảng bá giá trị văn hóa, thể thao tiêu biểu, đặc sắc, tiềm năng du lịch đất nước, con người Việt Nam
Lễ hội văn hóa-xã hội là hình ảnh thu nhỏ đời sống lao động, sinh hoạt, tín ngưỡng của một cộng đồng dân cư, từ lâu, đã trở thành sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong đời sống người dân Việt Nam. Lễ hội văn hóa - xã hội là chứng tỏ tính cố kết của cộng đồng, là minh chứng cho nét đẹp văn hoá ngàn đời của ông cha ta.
Gồm 2 phần:
Chuẩn bị: Giai đoạn chuẩn bị cho mùa lễ hội sau và khi ngày hội đã đến gần. Chuẩn bị cho mùa lễ hội sau được tiến hành ngay sau khi mùa hội trước kết thúc, mọi khâu chuẩn bị đã có sự phân công, cắt cử mọi việc để đón mùa lễ hội năm sau
Vào hội: nhiều hoạt động diễn ra trong các ngày lễ hội, đó là các nghi thức tế lễ, lễ rước, dâng hương, tổ chức các trò vui. Đây là toàn bộ những hoạt động chính có ý nghĩa nhất của một lễ hội. Lễ hội thu hút nhiều đối tượng hay ít khách đến với lễ hội, diễn ra trong nhiều ngày hay một ngày hoàn toàn chi phối bởi các hoạt động trong những ngày này. Ví dụ: Lễ chọi trâu ở Đồ Sơn; lễ hội đua ngựa Bắc Hà, Sa Pa
Có thể bạn quan tâm!
-
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 1 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 2 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 3 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 4 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 5 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
*Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn: là lễ hội truyền thống có từ lâu đời của người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng. Hàng năm cứ vào ngày 9/8 âm lịch, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) lại diễn ra lễ hội chọi trâu thu hút sự chú ý của người dân địa phương và du khách trên cả nước. Là một tập tục cổ tồn tại từ rất lâu đời và được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2013.
*Lễ hội đua ngựa Bắc Hà: Nét văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc Tây Bắc.

Lễ hội đua ngựa truyền thống gần 100 năm tuổi, diễn ra vào tháng 6 hằng năm.Ở lễ hội, nài ngựa là những người nông dân và ngựa đua chính là những con ngựa thồ hàng giúp người dân mưu sinh hằng ngày. Lễ đội đua ngựa Bắc Hà trước đây diễn ra xung quanh cánh đồng, các quả đồi và đích là bãi đất ở trung tâm thị trấn. Khi gần về tới đích, các kị mã nhảy thật nhanh xuống đất, rút khẩu súng kíp trên vai và nhằm vào bia bắn 5 phát súng rồi cướp quả cầu đỏ, nhảy lên ngựa quay về điểm xuất phát. Ai vừa nhanh, vừa bắn súng trúng đích nhiều nhất là người chiến thắng.
Lễ hội ngành nghề
Là lễ hội được tổ chức theo từng ngành nghề nhất định nhằm giới thiệu, tôn vinh thương hiệu, sản phẩm đặc trưng của ngành nghề hoặc vùng miền nào đó trong đất nước.
*Lễ hội trái cây Nam Bộ: là một trong những lễ hội thường niên chào hè nổi bật của thành phố Sài Gòn. Lễ hội là nơi giới thiệu những nét đặc sắc và đa dạng chủng loại trái cây của Nam Bộ, vựa trái cây lớn nhất nước ta. Lễ hội Trái cây Nam bộ được khai mạc vào 9 giờ sáng ngày 1/6 và kéo dài đến hết ngày 31/8 tại khu Du lịch Văn hoá Suối Tiên.
Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày khái niệm lễ hội, mục đích, ý nghĩa, cấu trúc của lễ hội Việt Nam. Tại sao cần gìn giữ đặc trưng của các lễ hội? Phân tích và cho ví dụ minh họa?
2. Trình bày những hiểu biết của mình về lễ hội các sự kiện lịch sử, lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo, lễ hội văn hóa xã hội, lễ hội đương đại Việt Nam.
3. Lễ hội là gì? Tại sao nói: Vui như trẩy hội ? Anh/ chị hãy phân tích mặt tích cực của lễ hội theo ý kiến riêng của mình.
4. Có ý kiến cho rằng “Du khách đến lễ hội chỉ là theo trào lưu”. Anh/ chị có đồng ý quan điểm trên hay không? Vì sao?
5. Có ý kiến cho rằng: “Hiện nay, các hình thức tuyên truyền ở lễ hội còn đơn điệu, chưa hấp dẫn du khách, chưa giúp họ hiểu về các giá trị lịch sử văn hóa của lễ hội”. Ý kiến riêng của anh / chị về vấn đề trên? Anh/ chị sẽ làm gì để bảo vệ các giá trị lễ hội ?
Chương 4. PHONG TỤC LẠ & LỄ HỘI ĐẶC SẮC LÀO CAI
Giới thiệu
Chương này nhằm ung cấp các kiến thức cơ bản về phong tục lạ lạ và lễ hội đặc sắc của đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao Lào Cai. Đặc biệt là các lễ hội, nghi lễ dân gian đã được Bộ Văn hoá thể thao và du lịch xếp hạng là di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia hàng năm.
Mục tiêu
Trình bày được phong tục lạ và lễ hội đặc sắc ở Lào Cai. Phân tích được ý nghĩa và giá trị các phong tục lạ và đặc sắc Lào Cai.
Giới thiệu và mô tả bằng nhiều hình thức lễ hội đặc sắc của các dân tộc thiểu số Lào Cai: H’Mông, Dao, Tày, Thái, Hà Nhì ... đã được Bộ Văn hoá thể thao và du lịch xếp hạng là di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia hàng năm.
Bày tỏ được các ý kiến về việc giữ gìn, phát huy những điểm tích cực trong bối cảnh tràn lan lễ hội Việt Nam hiện nay.
Nghiêm túc, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tích cực nghe giảng trên lớp. Có ý thức rèn luyện các kỹ năng đóng vai, thuyết trình, thảo luận nhóm. Tự tin, phối hợp khi làm việc độc lập hoặc theo nhóm.
Nội dung chính
1.GIỚI THIỆU MỘT SỐ PHONG TỤC LẠ TRONG ĐỜI SỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ LÀO CAI
1.1. Khái niệm phong tục lạ
Phong tục lạ là những tục lệ mà được ít người biết đến, những phong tục lạ thường sẽ tập trung ở một số các dân tộc ít người, từ xa xưa đã truyền lại.
1.2. Một số phong tục lạ tiêu biểu
1.2.1.Lễ nhảy lửa của người Dao
Lễ nhảy lửa (tiếng Dao gọi là Pút tồng), thường được tổ chức từ đầu năm âm lịch đến ngày 15 tháng Giêng. Đây là nghi lễ truyền thống của một số dân tộc miền núi phía Bắc, trong đó có người Dao đỏ ở xã Nậm Đét (Bắc Hà). Lễ hội này được tổ chức theo quy mô hộ gia đình khi có người con, cháu vừa làm xong lễ Cấp sắc. Đây là lễ hội truyền thống lớn, quan trọng hàng đầu trong năm của người Dao đỏ, mang nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo, kỳ lạ.
Lễ nhảy lửa được tổ chức trên một khoảng sân rộng. Trong phần nghi lễ của người Dao đỏ thì vật phẩm dâng cúng không thể thiếu các loại như: Cơm, gạo, rượu, gà luộc, nước suối, vải mộc màu trắng, hương, tiền làm bằng giấy bản, đèn hoặc nến…
Tất cả các sản phẩm được trưng bày trên một bàn gỗ dài. Ngay giữa sân, một đống củi to đã được thanh niên mang đến, xếp gọn gàng.
Khi đống củi đã trở thành một đống than hồng rừng rực cháy, thầy cúng bắt đầu làm nghi lễ. Niên phụ lễ và bài cúng thần lửa được cất lên bằng những câu cầu may cho một năm mới, một cuộc sống bình yên, hạnh phúc, cầu mong “mưa thuận, gió hòa”, muôn nhà khỏe mạnh. Cầu mong thần lửa mang hơi ấm của mình về sưởi ấm dân làng về vui cùng lễ hội.
Trong lúc chủ lễ cầu khấn, cũng là lúc người phụ lễ dùng một gióng vầu tre đã được chuẩn bị từ trước, được chẻ đôi, cầm chặt vào nhau như chưa hề chẻ ra, gieo xuống bàn hay xuống đất. Khi hai mảnh tre hay vầu cùng ngửa, hoặc cùng sấp thì cũng có nghĩa là thần lửa đã đồng ý về vui cùng dân bản, còn nếu một sấp, một ngửa thì phải xin lại, đến khi được thì thôi.
Quanh đống lửa, hàng trăm đôi mắt các cô gái người Dao dõi theo những chàng trai chưa có vợ, đang nhảy lửa, để rồi xong hội xuân, họ tìm đến nhau, nhen nhóm tình yêu, thương trộm, nhớ thầm để rồi nếu hợp duyên sẽ nên vợ, nên chồng.
Kết thúc buổi lễ nhảy lửa Ông chủ lễ cầm con gà trống cùng rượu và giấy bạc đứng trước bàn thờ cầu khấn phù hộ cho những người tham gia nhảy lửa được khỏe mạnh, thông minh, học được nhiều phép, cúng giỏi, đủ đức, đủ tài để giúp đỡ mọi người, chữa bệnh, cưu mang dân nghèo, làm phúc cho thiên hạ. Phù hộ cho gia đình, dòng họ, đồng bào dân tộc Dao đỏ làm ăn phát đạt, phát tài, phát lộc, giàu sang, phú quý. Ông chủ lễ tạ ơn các thầy tiền bối (sư phụ) bằng hương, giấy bạc, rượu, hóa vàng để đưa sư phụ về nơi thiên đường.
Lễ hội nhảy lửa là một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Dao Đỏ ở Nậm Đét và là minh chứng cho sức mạnh, lòng dũng cảm của các chàng trai người Dao Đỏ mà còn là hoạt động văn hóa độc đáo mang đậm bản sắc rất hoang sơ, huyền bí cần được nghiên cứu và bảo tồn.
1.2.2.Ma khô của người H’Mông
Là lễ cúng cuối cùng ngụ ý để thả linh hồn người chết về với tổ tiên, cội nguồn, mong sao được siêu thoát, để tìm được đường về với tổ tiên và phù hộ cho gia đình...
Tuy nhiên, cúng Ma khô, nó không được tổ chức thường xuyên mà chỉ khi gia đình có người ốm đau hay chủ nhà nằm mơ thấy linh hồn người chết về đòi trâu. Sau khi được chôn cất 12 ngày nếu không đủ điều kiện để làm thì nhờ thầy cúng làm lễ gia hạn, sau 1 tháng, 1 năm hoặc 1 vài năm. Khi mơ thấy hoặc ốm đau mà không làm thì sẽ bị ma quấy rối không cho làm ăn…
Ở đám ma khô, dưới chân cột trống họ lấy một chiếc chổi, một con dao, một cái xẻng, một cái búa, một chiếc xà beng buộc vào chân cột trống và một đống than
hồng đổ vào dưới mang ý nghĩa tượng trưng cho các công cụ san gạt đường đón linh hồn người chết về nhà. Sau khi treo trống xong, người con dâu trong gia đình sẽ đi lấy hai bộ váy áo mới, dùng khăn vấn tròn vào váy tạo thành một hình nộm rồi đem vắt lên một chiếc giá tre để làm bàn thờ với ý nghĩa tượng trưng cho linh hồn người chết về thăm lại nhà. Bên dưới dùng một ván gỗ đặt hai cây "sình tờ" (đồng âm dương), một chiếc đèn và một quả trứng bổ đôi, một chiếc chén làm bàn thờ để gọi người chết về ăn cơm.
Đối với người Mông, dù gia đình giàu, hay nghèo thì cũng không thể bỏ qua nghi lễ này, bởi có ý nghĩa rất quan trọng đối với gia đình, không chỉ về đạo đức, xã hội mà còn mang đậm yếu tố tín ngưỡng tâm linh, thể hiện tình cảm tri ân giữa người sống với người đã mất, cầu mong gia đình ấm no hạnh phúc và thể hiện lòng hiếu thảo báo hiếu con cháu với tổ tiên.
1.2.3.Tục bắt vợ và đám cưới của người H’Mông
Trước đây người Mông rất phổ biến tục “bắt vợ”. Khi chàng trai Mông ưng một cô gái nào đó thì tổ chức đón đường, “bắt” cô gái về làm vợ mình. Cô gái bị “bắt” về được nhà trai “dùng gà trống đánh dấu nhập nhà” buộc phải lấy chàng trai cho dù có đồng ý hay không.
Trong xã hội cũ, tục bắt vợ thường diễn ra là do những gia đình nhà trai có quyền thế ép buộc các cô gái về làm vợ. Khi các cuộc cưỡng hôn này tan vỡ thì thường người con gái chỉ biết tìm đến cái chết. Bởi lẽ sau khi đã “nhập ma” nhà trai, cô gái có tự ý bỏ về thì bố mẹ cô cũng không thừa nhận nữa.
Hiện nay, ở một số nơi vẫn còn tồn tại phong tục này nhưng đã khác hẳn về tính chất, thường là có sự thoả thuận từ hai phía cô gái và chàng trai, để đặt gia đình hai bên vào một “sự đã rồi”. Hoặc giả, lễ cưới đã được hai bên gia đình chuẩn bị, còn việc “bắt vợ” chỉ là làm tăng thêm phần thi vị cho đôi lứa mà thôi.
Suy cho cùng, tục “bắt vợ” của người Mông khi gạt bỏ những thủ tục lại khẳng định cho tình yêu mãnh liệt và niềm khát khao hạnh phúc, khao khát hôn nhân tự do đã bị chế ngự và kìm hãm từ bao đời.
Ngày nay, hôn nhân của người Mông chủ yếu theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Vợ chồng người Mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè...
Trong các phong tục tập quán của người Mông thì việc cưới xin để lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều hơn cả. Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân hay cuối đông vì đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của người Mông cũng tuân theo những lễ nghi như dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cưới) và lễ đón dâu.
Lễ dạm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông thuộc các bài hát nghi lễ cưới xin, giúp nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục dạm hỏi hẹn ngày đón dâu.
Đám cưới người Mông bao giờ cũng phải có phù rể. Phù rể sẽ cùng chú rể quỳ lạy tổ tiên nhà gái trước khi rước dâu đi. Sau khi hoàn tất các thủ tục cô dâu được hai người anh em trong gia đình dắt tay ra cửa trao cho người đón dâu. Đám đón dâu đi lẻ về chẵn, theo phong tục người nhà gái không đưa dâu đến nhà trai. Quãng đường đón dâu về dù ngắn hay dài cũng nhất thiết phải nghỉ giữa chừng, ăn cơm nắm do nhà gái chuẩn bị sẵn. Cô dâu về tới trước cửa nhà trai còn phải làm một nghi lễ nhập ma nhà chồng mới được vào cửa.
1.2.5. Tục Trùm chăn người Hà Nhì
Tục Trùm chăn người Hà nhì được tổ chức trong 3 ngày tháng 6 âm lịch, gồm có hai phần là phần lễ cúng trang nghiêm với đầy đủ đồ cúng theo đúng phong tục truyền thống và phần hội dành cho sinh hoạt cộng đồng vui chơi và để các bạn trẻ tìm bạn đời cho mình.
Chuẩn bị cho phần lễ: đồ cúng sẽ có 5 bánh dày, 1 bát thịt trâu luộc, 1 bát nước gừng pha loãng và 4 bát con úp để trước bàn thờ. Để thực hiện lễ cúng, sẽ có một thầy cúng đứng tuổi chủ trì. Lễ cúng này có thể tiến hành ở nhà của người dân trong làng, hoặc ngôi nhà ở rừng cấm được dựng nên chuyên để tổ chức lễ hội.
Tùy vào địa điểm tổ chức, mà các bước tiến hành nghi lễ sẽ diễn ra theo các bước truyền thống một cách phù hợp. Khi nghi lễ kết thúc, mọi người tham dự lễ hội sẽ chuẩn bị cho phần hội và thụ lộc. Mọi người phải thục lộc đến hết đồ đã cúng. Sau đó, phần hội sẽ diễn ra trong không khí tưng bừng vui vẻ, rồi tiếp đến sẽ là phần thú vị của hội mà rất nhiều người mong chờ, trùm chăn.
Tại lễ hội, chàng trai tham gia một cách hào hứng, chủ động, đặc biệt với các trò chơi đòi hỏi phải thể hiện hết năng lực và bản lĩnh đàn ông. Mục đích của họ nhằm thu hút sự chú ý của “phái đẹp”. Qua ánh mắt các cô gái, sự nhạy cảm của tuổi đang yêu sẽ “mách” cho các chàng trai biết cô gái nào có cảm tình với mình và cảm tình ở mức nào. Vào thời điểm thích hợp, chàng trai lặng lẽ tách khỏi cuộc chơi chung, tìm cách tiếp cận người đẹp. Những lời hỏi han, mời mọc, bông đùa và dĩ nhiên cả lời ướm thử, được các chàng trai thực hiện với mục đích thăm dò, xem phản ứng của “đối tác” ra sao. Khi “cá đã cắn câu”, chàng trai tiến thêm một bước táo bạo hơn, nắm lấy tay cô gái và... lôi đi. Dĩ nhiên cô gái sẽ chống cự, nhưng là sự chống cự cho “phải phép”; tay có vẻ nhùng nhằng nhưng miệng thì cười quyến rũ và chân lại bước theo người ta. Chàng trai lập tức lấy cái chăn mà mình đã giấu sẵn, trùm lên đầu cô gái. Họ sẽ tách khỏi hội, tâm sự trò chuyện cùng nhau, nếu cảm thấy tâm đầu ý hợp thì chàng trai sẽ mang cô gái về nhà mình giấu, sau vài ngày thì nhờ người đến nhà cô gái mai mối, xin phép để họ được tìm hiểu chính thức, sau đó sẽ nhanh chóng đi đến hôn nhân. Nếu như sau khi trùm chăn, trò chuyện mà không
thành, trai gái sẽ chia tay nhau và các dịp lễ hội sau này cũng sẽ không lặp lại việc trùm chăn nữa. Trường hợp cả hai bên đều hài lòng về nhau, thì đợi lúc gần sáng chàng trai sẽ vác cô gái về “giấu” ở nhà mình. Sau đó ít ngày, nhà trai cử người sang nhà gái mối mai, xin với nhà gái cho đôi trẻ được tự do tìm hiểu trên quan điểm đi đến hôn nhân.
Hiện nay ở nhiều vùng người Hà Nhì, tục trùm chăn vẫn còn duy trì trong cuộc sống đời thường, đặc biệt tại các lễ hội hoặc liên hoan văn hoá các dân tộc ít người. Đó là một nét văn hoá truyền thống mang bản sắc Hà Nhì.
1.2.6. Tằng cẩu và tục gội đầu của người Thái
Trong đời sống đồng bào dân tộc Thái có một kho tàng văn hóa rất phong phú và đa dạng. Trong đó, gội đầu của người phụ nữ Thái là một nét văn hóa độc đáo không xen lẫn với bất cứ một dân tộc nào khác. Bởi hầu hết phụ nữ Thái khi lấy chồng đều phải búi tóc (tẳng cẩu).
Tẳng cẩu : vừa là minh chứng rằng người con gái Thái đã có chồng, cũng vừa có một ý nghĩa nữa là chiếc tẳng cẩu này mang theo một phần hồn vía (phi khuôm) của người chồng. Vì thế mà người phụ nữ Thái không được tự ý thả tóc xuống, nếu không sẽ làm mất sự may mắn, đem đến sự đen đủi, ốm đau, bệnh tật cho người chồng. Thậm chí, cả lúc gội đầu cũng phải xin phép và như trước đây chỉ khi nào người chồng có mặt ở nhà thì người phụ nữ Thái mới được gội đầu...
Theo quan niệm, do tẳng cẩu mang theo một phần hồn vía của chồng, nên mỗi khi thả tóc, gội đầu, phải niệm xin phép hồn vía, ma nhà của nhà chồng để tránh cho chồng khỏi bị ốm đau, bệnh tật. Do vậy, nên khi chồng đi xa hoặc vắng nhà lâu ngày họ không được phép gội đầu, để trách cái xấu đến với chồng mình.
Do điều kiện sống, sinh hoạt, những người phụ nữ Thái rất hạn chế gội đầu, một tuần họ chỉ gội 1 đến 2 lần, thậm chí 2 - 3 tuần mới gội một lần. Khi thả tóc xuống họ thường có những câu niệm xua đuổi cái xấu và cầu những điều may mắn đến với người thân và gia đình như: "Cái xấu, bệnh tật, cái không tốt đẹp, may mắn, theo dòng nước chảy hết vào đất, vào hang hốc. Cái may mắn, tốt đẹp hãy đến với gia đình...".
Ngoài ra, người Thái còn có tục gội đầu ngày 30 tết, thời điểm trước khi bước sang năm mới, phải gội đầu để rũ bỏ những gì không may mắn của năm cũ sẽ trôi theo dòng nước, đón một năm mới nhiều điều tốt đẹp.
Lễ gội đầu: Lễ gội đầu được tiến hành từ trưa ngày cuối cùng trong năm, người Thái đánh dấu ngày đó có lễ gội đầu.
Trước đó hàng tuần người Thái đã vo gạo nếp lấy nước. Nước gạo được đổ vào cất nồi cất giữ cả tuần hoặc lâu hơn, để càng chua càng tốt. Đó là nước gội dành cho đàn bà con gái. Nước tắm thường là nước thơm của cây mùi già. Còn đàn ông nước






