Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 4

Vào dịp hội đền Hùng, vùng đất tổ lưu truyền điệu múa "tùng dí", thanh niên nam nữ cầm trong tay các vật biểu trưng cho sinh thực khí nam và nữ.

Phong tục "giã cối đón dâu" cũng là một biểu hiện cho tín ngưỡng phồn thực, chày và cối là biểu tượng cho sinh thực khí nam và nữ.

Ngoài ra một số nơi còn vừa giã cối (rỗng) vừa hát giao duyên.

* Trống đồng - biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực

Vai trò của tín ngưỡng phồn thực lớn tới mức ngay cả chiếc trống đồng, một biểu tượng sức mạnh của quyền lực, cũng là biểu tượng toàn diện của tín ngưỡng phồn thực: Hình dáng của trống đồng phát triển từ cối giã gạo; cách đánh trống theo lối cầm chày dài mà đâm lên mặt trống mô phỏng động tác giã gạo; tâm mặt trống là hình Mặt Trời biểu trưng cho sinh thực khí nam, xung quanh là hình lá có khe rãnh ở giữa biểu trưng cho sinh thực khí nữ; xung quanh mặt trống đồng có gắn tượng cóc, một biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực.

2.2. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên

2.2.1. Ý nghĩa, nguồn gốc

Do là một đất nước nông nghiệp, điều đặc biệt của tín ngưỡng Việt Nam là một tín ngưỡng đa thần và âm tính (trọng tình cảm, trọng nữ giới). Có giả thuyết cho rằng: đó là do ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ thời xưa tại Việt Nam. Các vị thần ở Việt Nam chủ yếu là nữ giới, do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực như đã nói ở trên nên các vị thần đó không phải là các cô gái trẻ đẹp như trong một số tôn giáo, tín ngưỡng khác mà là các bà mẹ, các Mẫu.

2.3.2. Biểu tượng thờ cúng

a. Thờ Tam phủ, Tứ phủ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

Tam phủ là danh từ để chỉ ba vị thánh thần: Bà Trời (hay Mẫu Thượng Thiên), Bà Chúa Thượng (hay Mẫu Thượng Ngàn), Bà Nước (hay Mẫu Thoải).

Tứ phủ gồm ba vị Mẫu trên cộng thêm Mẫu Địa phủ. Các Mẫu cai quản những lĩnh vực quan trọng nhất của một xã hội nông nghiệp.

Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 4

Về sau do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa nên có thêm Ngọc Hoàng,Thổ Công và Hà Bá.

Thần Mặt Trời là vị thần quan trọng nhất, có mặt trên tất cả các trống đồng.

b. Tứ pháp

Tứ pháp là danh từ để chỉ các bà thần Mây – Mưa - Sấm - Chớp, đại diện cho các hiện tượng tự nhiên có vai trò quan trọng trong xã hội nông nghiệp.

Sau này khi Phật giáo vào Việt Nam thì nhóm các nữ thần này được biến thành Tứ pháp với truyền thuyết về Phật Mẫu Man Nương. Tứ pháp gồm:

- Pháp Vân (thần mây) thờ ở chùa Bà Dâu

- Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu

- Pháp Lôi (thần sấm) thờ ở chùa Bà Tướng

- Pháp Điện (thần chớp) thờ ở chùa Bà Dàn

Ảnh hưởng của Tứ Pháp ở Việt Nam rất lớn, nhiều lần triều đình nhà Lý phải rước tượng Pháp Vân về Thăng Long để cầu mưa…

c. Thờ động vật và thực vật

Các con vật đó gần gũi với cuộc sống của người dân của một xã hội nông nghiệp như: Cóc, rùa, trâu, bò…Người dân còn đẩy các con vật lên thành mức biểu trưng như Tiên, Rồng…

Theo truyền thuyết, thì tổ tiên người Việt thuộc "họ Hồng Bàng" (có nghĩa là một loài chim nước lớn), thuộc giống "Rồng Tiên". Con rồng lần đầu tiên xuất hiện ở vùng Nam Á, sau đó mới được phổ biến ở Trung Quốc rồi đến các nước phương Tây. Có rất nhiều địa danh Việt Nam có tên liên quan đến rồng như Thăng Long, Hàm Rồng,...

Thực vật được tôn sùng nhất là cây lúa, có thần Lúa, hồn Lúa, mẹ Lúa,... Đôi khi ta thấy còn thờ thần cây Đa, cây Cau,...

2.3. Tín ngưỡng sùng bái con người

2.3.1. Ý nghĩa, nguồn gốc

Tỏ lòng biết ơn, ghi nhớ, nhắc nhở công lao của người có công với đất nước, làng xã, nghề nghiệp.

2.3.2.Biểu tượng thờ cúng

a. Hồn và vía

Người Việt cho rằng người có ba hồn, nam có bảy vía và nữ có chín vía.

Ba hồn gồm: Tinh (sự tinh anh trong nhận thức), Khí (năng lượng làm cho cơ thể hoạt động) và Thần (thần thái của sự sống).

Bảy vía ở đàn ông cai quản hai tai, hai mắt, hai lỗ mũi và miệng.

Chín vía ở nữ giới cai quản bảy thứ như ở nam giới cộng thêm hai vía nữa. Hai vía này có nhiều cách giải thích. Chúng có thể là núm vú có vai trò quan trọng trong nuôi con. Tuy nhiên, có cách giải thích khác nhưng người Việt thường có câu nói

nam có "ba hồn bảy vía" còn nữ có "ba hồn chín vía", cũng là từ các quan niệm trên mà ra.

Hồn và vía dùng thể xác làm nơi trú ngụ, trường hợp hôn mê ở các mức độ khác nhau được giải thích là vía và hồn rời bỏ thể xác ở các mức độ khác nhau.

Nếu phần thần của hồn mà rời khỏi thể xác thì người đó chết. Khi người chết, hồn nhẹ hơn sẽ bay sang kiếp khác còn vía nặng hơn sẽ bay là mặt đất rồi tiêu tan. Thế nên mới có những câu ngạn ngữ như: "hồn xiêu phách lạc" (phách tức là vía; ở đây muốn nói trạng thái run sợ, mất chủ động), "sợ đến mức hồn vía lên mây"...

Khi chết là hồn đi từ cõi dương gian đến cõi âm ty, cõi đó cũng được tưởng tượng có nhiều sông nước như ở cõi dương gian nên cần phải đi bằng thuyền nên nhiều nơi chôn người chết trong những chiếc thuyền.

b. Tổ tiên

Người Việt là một trong những dân tộc có tục thờ cúng tổ tiên sâu đậm và sớm nhất, nó gần như trở thành một tôn giáo. Bàn thờ tổ bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất. Ngày xưa, khi cúng lễ bao giờ cũng có nước (hoặc rượu) cùng với những đồ tế lễ khác như vàng mã, hoa quả... Sau khi cúng xong thì đem đốt vàng mã rồi đổ rượu hoặc nước lên đống tro tàn - khói bay lên trời, nước hòa với lửa thấm xuống đất - theo họ như thế tổ tiên mới nhận được. Hành động đó được cho là sự hòa quyện Nước - Lửa (âm dương) và Trời - Đất - Nước (tam tài) mang tính triết lý sâu sắc.

c. Tổ nghề

Tổ nghề là một hoặc nhiều người có công lớn đối với việc sáng lập và truyền bá một nghề nào đó. Do đó được các thế hệ sau tôn trọng và suy tôn là làm người sáng lập vì đã có công tạo ra nghề, gọi là Tổ nghề (hoặc thánh sư).

Vậy, tổ nghề là những con người bình thường, nhưng lại được người đời sau tôn thờ vì đã có công sáng tạo ra nghề, truyền lại cho các thế hệ sau.

d. Thành hoàng làng

Người Việt thờ tổ tiên và Thổ Công, ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Giống như Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một làng. Không có làng nào ở Việt Nam mà không có Thành hoàng. Những người được thờ thường là những người có tên tuổi và địa vị, có công lao đối với làng đó.

Tuy nhiên, một số làng còn thờ những người lý lịch không rõ ràng gì như trẻ con, ăn xin, ăn mày, trộm cắp... nhưng họ chết vào "giờ thiêng" (Giờ xấu theo quan niệm xưa).

e. Vua tổ

Ở phạm vi quốc gia, người Việt thờ Vua tổ, đó là Vua Hùng. Nơi thờ phụng ở Phong Châu, Phú Thọ. Ngày giỗ tổ là ngày 10 tháng 3 âm lịch

g. Tứ bất tử

Người Việt còn thờ bốn vị thánh bất tử, đó là Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Liễu Hạnh.

Tản Viên biểu hiện cho ước vọng chiến thắng thiên tai, lụt lội; Thánh Gióng biểu hiện cho tinh thần chống giặc ngoại xâm; Chử Đồng Tử biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về vật chất;

Liễu Hạnh biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh về tinh thần của người dân Việt Nam.

h. Danh nhân và Anh hùng

Việt Nam có rất nhiều danh nhân, các vị danh nhân được thờ cúng và anh hùng có công với đất nước. VD: Hồ Chí Minh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Bỉnh Khiêm…

2.4. Tín ngưỡng sùng bái Thần linh

2.4.1. Ý nghĩa, nguồn gốc

Do tâm lý của con người muốn dựa dẫm và tin vào thế giới siêu nhiên để mong đợi sự giúp đỡ, che chở và xuất phát từ các tục lệ địa phương.

2.4.2. Biểu tượng

a. Thổ địa

Bắt nguồn từ nguồn gốc đất nước là nước nông nghiệp. Theo truyền thuyết thì Thần Hậu Thổ là vị trưởng quản tất cả đất đai. Thần Thổ Địa Công là vị coi sóc vùng đất nhỏ của địa phương nào đó. Người phàm nếu khi sống có công đức thì sẽ được phong làm Thần Thổ Địa.

b. Thần Tài

Là một vị thần trong tín ngưỡng Việt Nam và một số nước phương Đông. Theo truyền thuyết, thần tài chính là Triệu Công Minh, người đời nhà Thương. Ông lánh đời đi tu tại núi Chung Nam. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Chính Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi việc đuổi trừ ôn dịch, cứu bệnh trừ tà.

Hơn nữa, ai bị oan ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ. Người buôn bán thì cúng cầu ông để được phát đạt may mắn. Người ông yêu là Phù Dung tiên tử. Người ta thường vẽ ông hình một người mặt đen, râu rậm, tay cầm roi, cưỡi cọp đen.

Dân gian còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên Soái. Người đời vẽ ông trên một cái đĩa làm bằng kim loại trên bàn thờ để thờ cúng. Bàn thờ

Thần Tài được lập ở những góc nhà, xó xỉnh chứ không phải nơi cao ráo như bàn thờ Tổ tiên, Thổ Công hay Thánh Sư. Bàn thờ Thần Tài chỉ là một sập sơn son thếp vàng. Phía trong khảm là bài vị hoặc thùng gỗ dán giấy đỏ ở xung quanh, phía trong dán bài vị, cũng được viết trên giấy đỏ.

Nếu như Thần Tài người ta cúng tỏi hay hoa quả thì trái lại Thổ Địa lại cúng chuối xiêm, thuốc lá hay có khi cúng ly cà phê. Thông thường, Thần Tài người Hoa kính trọng và khấn vái nhiều, thì trái lại người Việt luôn luôn khấn vái Ông Địa. Có câu: Lạy ông Địa cúng nải chuối là câu khấn thường xuyên, giá trị vật cúng thường thấp hơn vật mất hay vật cần khấn.

Vào ngày Tết, vai trò của Thần Tài càng được xem trọng hơn. Người ta lo trang hoàng nhà cửa, sửa soạn cho ông sạch sẽ, nếu vị thần này đã quá cũ hay bị hư thì sẽ thỉnh vị mới về.

Họ tin rằng năm mới, mọi thứ đều ngăn nắp và Thần Tài có sạch sẽ thì làm ăn mới phát tài

c. Táo quân

Theo tín ngưỡng truyền thống của người Việt, ngày 23/12 âm lịch là ngày Tết Ông Công Ông Táo. Ngày này, Các ông Táo sẽ cưỡi cá chép lên báo cáo với Ngọc Hoàng những điều mắt thấy tai nghe dưới hạ giới một cách khách quan.

Theo người Việt, sự tích Táo quân gồm ba nhân vật 2 ông 1 bà: vị thần Đất, vị thần Nhà, vị thần Bếp.

d. Hà Bá

Hà Bá không được thờ rộng rãi mà chỉ được người thờ ở những ven sông để cầu cho mọi người không gặp nạn trên sông và cầu cho mọi người bắt được nhiều cá trong mùa mưa.

Câu hỏi ôn tập

1. Trình bày khái niệm Tín ngưỡng? Nêu những đặc điểm và các hình thức tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

2. Anh/chị hãy trình bày những hiểu biết của mình về tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ cúng tổ nghề của Việt Nam; tín ngưỡng thờ cúng con người và tín ngưỡng sùng bái tự nhiên ở Việt Nam. Lấy ví dụ minh họa.

3. Giải thích biểu tượng thờ cúng: thờ thành hoàng làng, hồn và vía trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Chương 3. LỄ HỘI VIỆT NAM


Giới thiệu

Chương này nhằm cung cấp một số kiến thức cơ bản: khái niệm, mục đích, ý nghĩa, cấu trúc và một số lễ hội dân gian Việt Nam.

Mục tiêu

Trình bày được mục đích, ý nghĩa và cấu trúc của lễ hội Việt Nam. Phân tích được một số loại hình lễ hội dân gian Việt Nam.

Mô tả nghi lễ, thuyết trình được một số nội dung về các lễ hội tiêu biểu Việt Nam. Khai thác các nội dung, thời gian lễ hội để xây dựng chương trình du lịch đặc sắc, hấp dẫn phục vụ cho nghề nghiệp.

Bày tỏ được các ý kiến về việc giữ gìn, phát huy những điểm tích cực trong lễ hội Việt Nam. Tăng thêm lòng tự hào, tự tôn dân tộc, yêu quê hương đất nước, biết ơn thế hệ cha ông đi trước.

Nghiêm túc, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tích cực nghe giảng trên lớp. Có ý thức rèn luyện các kỹ năng đóng vai, thuyết trình, thảo luận nhóm. Tự tin, phối hợp khi làm việc độc lập hoặc theo nhóm.

Nội dung chính

1. KHÁI QUÁT VỀ LỄ HỘI

1.1. Khái niệm lễ hội

Lễ hội là một bộ phận của phong tục. Phong tục, tập quán là một hệ thống các tập tục, thói quen sinh hoạt của cộng đồng được hình thành và ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo. Phong tục gắn với đạo lý uống nước nhớ nguồn là nguồn gốc ra đời của Lễ hội.

Con người tham gia say mê, nhiệt tình vào các hoạt động lễ hội: trò chơi, văn nghệ. Các trò chơi trong phần Hội phản ánh hiện thực và khát khao của cư dân nông nghiệp lúa nước bởi tài năng, trí tuệ, tâm hồn tinh tế, nhạy cảm… cả một kho tàng trò chơi dân gian hình thành từ đây. Lễ hội mang ý nghĩa cộng đồng và cộng cảm sâu sắc.

Như vậy, Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng; diễn ra trên một địa bàn dân cư; trong một giới hạn không gian và thời gian nhất định, nhằm nhắc lại một sự kiện nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên, với thần thánh và với con người trong xã hội…

Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tập thể của nhân dân diễn ra vào những thời điểm cố định trong năm để kỉ niệm một sự kiện lịch sử - chính trị, văn hóa, tôn giáo của cộng đồng.

1.2. Mục đích, ý nghĩa của lễ hội

Lễ hội có nhiều tình chất: như tính thời gian, tính địa phương, tính hình thức (đóng mở chặt chẽ, diễn xướng dân gian).

Về nội dung lễ hội mang tính chất tưởng niệm, tính cộng đồng (quần thể), tính tập trung triệt để và phổ quát rộng rãi, tính hoành tráng.

Bản thân giữa Lễ và Hội trong một Lễ hội cũng có tính đối ứng (thiêng - thực, động

-tĩnh, đạo - đời…).

Ngoài các nghi thức chặt chẽ thì Lễ hội cũng còn mang tính đặc biệt ở chỗ hệ thống trò chơi dân gian đặc sắc, đa dạng (gắn với trí tuệ, sức mạnh, giải trí, tài ăn nói, nghề nghiệp), các trò diễn dân gian…

Lễ hội là một kho lịch sử phong phú, đa dạng, tích tụ những miền văn hóa về phong tục, tín ngưỡng, nghệ thuật, các sự kiện lịch sử. Lễ hội có sức sống, thuyết phục mạnh mẽ, hun đúc lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Bóc tách lễ hội ta thấy được lớp văn hóa sống động trầm tích và được lưu giữ qua suốt chiều dài lịch sử…

- Dân chủ: Lễ hội xuất hiện từ khi xã hội chưa có giai cấp và tiếp tục tồn tại trong xã hội văn minh. Trong lễ hội, tất cả mọi người đều được tham gia không phân biệt giai cấp, đẳng cấp, mà bản chất lễ hội vốn dĩ là vậy. Tất cả được vui chơi, ăn uống, làm chủ, những khát vọng ngày thường bị hạn chế trong lễ hội được thực hiện.

- Nhân bản: Không khí trang nghiêm, hồ hởi của Lễ hội đã kích thích mọi tài năng, năng khiếu, ý chí vươn lên sự hoàn thiện, toàn mỹ. Lễ hội đem lại niềm phấn khởi, “vui như hội” là ước mơ, khát vọng tốt đẹp của nhân dân, ý chí cá nhân.

- Thẩm mỹ: Các loại hình nghệ thuật phong phú đặc sắc: tạo hình dân gian, nghệ thuật biểu diễn dân gian (rối nước)… Sáng tạo ra những giá trị nghệ thuật mới đầy chất thẩm mỹ. Lễ hội mang ý nghĩa bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa bản địa chống sự đồng hóa về mặt văn hóa (đặc biệt là thời Bắc thuộc), góp phần sức mạnh cho dân tộc bảo vệ độc lập.

Lễ hội cuốn hút tất cả mọi người tham gia và gắn kết họ lại với nhau trong niềm cộng cảm, tự hào về thôn quê, làng xóm, đất nước; chia sẻ cho nhau những câu chuyện thường ngày… Con người đến với lễ hội sống trong một không gian và thời gian khác hơn so với bình thường - có gì đó huyền ảo… Khi cầu nguyện họ dường như ở bên nhau cùng cầu mong cho mọi sự tốt đẹp, bỏ qua những vặt vãnh thường ngày. Lễ hội có ý nghĩa dân chủ, nhân bản và đề cao giá trị thẩm mỹ sâu sắc.

1.3. Cấu trúc của Lễ hội

Là loại hình văn hóa tổng hợp, là kiểu sinh hoạt của nhân dân sau một thời gian lao động mệt nhọc cũng là dịp để con người cùng hướng về một sự kiện trọng đại, ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống hay để giải quyết những lo âu, khát khao, ước vọng mà thực tại chưa đạt được.

Lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội.

Lễ là những nghi thức được tiến hành nhằm đánh dấu hoặc kỷ niệm một sự kiện có ý nghĩa nào đó. Hội là dịp để vui chơi tổ chức cho đông đảo người dân tham gia, theo phong tục hoặc dịp đặc biệt.

Phần lễ trong lễ hội thể hiện sự cầu xin và ước vọng về mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống yên bình và hạnh phúc. Trong lễ hội, đời sống văn hóa được nâng lên trình độ cao.

Quy mô lễ hội khác nhau (thời gian và không gian)

Có tính tập thể cao, ít phân biệt tuổi tác, ngành nghề, giới tính, tôn giáo…

Lễ hội ở Việt Nam tồn tại đa dạng, phong phú dưới nhiều hình thức, nghi thức khắp ba miền đất nước. Ước tính ở Việt Nam có đến gần 8000 lễ hội được tổ chức hằng năm.

* Đối với Lễ hội truyền thống của Việt Nam

Thời điểm diễn ra lễ hội tập trung chủ yếu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Mỗi địa phương tổ chức theo một phong cách, sắc thái riêng.

2.CÁC LOẠI HÌNH LỄ HỘI

Lễ hội là một tổ hợp vật chất, tinh thần, tái hiện quá khứ, mô tả hiện tại và thể hiện khát vọng tương lai. Nó chính là bảo tàng sống về các mặt sinh hoạt và các giá trị tinh thần dân tộc. Có nhiều tiêu chí để phân loại lễ hội Việt: như phân theo mùa, phân theo lãnh thổ, phân theo tôn giáo, tín ngưỡng, hoặc tính chất (nghề nghiệp, nhân vật trung tâm, cuộc sống trong quan hệ với tự nhiên, cuộc sống trong quan hệ với xã hội).

Hiện nay, cả nước có 7.966 lễ hội, trong đó 7.039 lễ hội dân gian chiếm 88,36%, 332 lễ hội lịch sử chiếm 4,16 %, 554 lễ hội tôn giáo chiếm 6,28 %, 10 lễ hội du nhập từ bên ngoài vào đất nước chiếm 0,12%, còn lại là các lễ hội khác chiếm 0,5%. Hà Nội là địa phương có nhiều lễ hội nhất (1.095 lễ hội), tỉnh ít lễ hội nhất là tỉnh Lai Châu chỉ có 17 lễ hội. Căn cứ vào nội dung của lễ hội mà các nhà nghiên cứu chia lễ hội thành:

2.1. Lễ hội cổ truyền

Ngày đăng: 02/11/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*