khắc đau buồn chia xa. Trong tang lễ, thường có nhiều loại hoa nhưng phổ biến và thông dụng nhất đó là hoa cúc vàng.
Câu chuyện em bé vào rừng sâu tìm hoa chữa bệnh cho mẹ vì lẽ đó bông hoa cúc và nghiễm nhiên trở thành hoa của sự hiếu thảo, trong tang lễ người ta thường dùng hoa cúc vàng để tỏ lòng hiếu thảo của mình tới người đã khuất. Ngoài ra trong tang lễ còn sử dụng hoa cúc trắng, hoa huệ tây, hoa ly…
Tìm hiểu tang ma một số dân tộc thiểu số Việt Nam (Tang ma người Mông đen Sa Pa)
Trong đám tang này, cô gái mới 25 tuổi, chết do bệnh nặng và không có điều kiện thuốc thang. Sau khi phát hiện cô đã chết trên giường, người anh trai nhanh chóng thông báo cho bà con trong bản, bằng cách bắn hai phát súng kíp lên trời.
Người trong bản đều biết tín hiệu này là báo có người mới chết. Sau đó, thầy mo được mời về để làm lễ, người chết được thay váy áo và giày mới, chân được bó bằng một tấm vải. Tuy nhiên, chân người chết được bó bằng vải màu trắng, chứ không phải vải đen như những người phụ nữ H'Mông vẫn bó chân thường ngày.
Nghi lễ thứ nhất gọi là lễ Ngựa tức là đưa xác người chết lên treo giữa nhà để cúng. Họ dùng ván gỗ Pơ Mu hoặc hai đoạn tre dài được ghép lại với nhau thành tấm bằng những sợi dây rừng cho người chết nằm. Họ buộc chân và phần thân người chết trong tư thế nằm ngủ, trên người phủ rất nhiều quần áo chỉ để hở chân và mặt. Ngoài ra, họ buộc một con gà trống vào thân một cây nỏ cùng một con dao rồi cúng cho người chết.
Lễ thứ hai trong đám tang người Mông đen là lễ mổ trâu, mổ lợn, tùy theo gia đình giàu hay nghèo mà lễ vật lớn hay nhỏ. Họ đem trâu, lợn tới với ngụ ý giao cho người chết, sau đó sẽ giết thịt làm đồ cúng và chia cho những người tới dự đám tang.
Ngoài ra, những người thân thiết, bạn bè có nhã ý muốn cúng tiến trâu, lợn cho người chết có thể đem lễ vật tới. Sau khi làm lễ giao cho người chết, phần thịt được chia cho nhà chủ phần chân sau và cái đuôi, phần còn lại được chia cho những người tới tham dự
Ngày giờ chôn cất được gia đình và thầy mo sắp đặt. Họ thường chôn vào lúc sáng sớm khi chưa có ánh mặt trời hoặc chôn vào buổi chiều muộn. Trước khi đưa xác ra khỏi nhà, họ làm lễ cúng giao các đồ vật để người chết mang theo. Các xâu tiền vàng được đem đốt giữa nhà, sau đó họ gói tro vào một tờ giấy đặt vào thùng gỗ đựng đồ ăn của người chết.
Những thanh niên bắt đầu chặt sợi dây buộc chiếc cáng tre nơi người chết nằm. Họ khiêng trên vai, lúc này những que nhang mới bắt đầu được đốt, để những người
Có thể bạn quan tâm!
-
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 1 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 2 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 4 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 5 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 6 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
thân trong gia đình quỳ lạy ngoài cửa. Họ khiêng xác chết đi rất nhanh qua rừng, dường như vừa đi vừa chạy, theo sau là rất đông người trong bản đi xem chôn cất.
Nơi chôn cất cách xa nhà khoảng 2 km, trên một khu đồi tre xanh tốt. Những người phụ nữ chỉnh sửa trang phục cho người chết một lần nữa. Trong khi đó những người đàn ông bắt đầu đào huyệt mộ.
Thầy mo lẩm nhẩm một bài cúng bí truyền rồi tung 2 chiếc thẻ tre tới khi hai mặt đều nhau, sau đó lấy chiếc khăn đỏ bỏ vào ngực áo của người chết rồi mới đậy nắp quan tài.
Trước đó, những người phụ nữ không ai bảo ai đã chạy về bản rất nhanh. Sau khi đóng nắp quan tài, chỉ còn những thanh niên trẻ ở lại lấp mộ. Họ vừa lấp vừa chia nhau những chén rượu cuối cùng. Khi lấp xong những người thanh niên còn lại cũng chạy đi rất nhanh, như sợ bị ma đuổi.
Sau khi chôn cất được 12 ngày, người nhà sẽ mời thầy mo về làm lễ cúng một lần nữa. Đây là lễ mời người chết về thăm nhà, giúp linh hồn người chết ra đi thanh thản, không trở về làm hại những người thân trong gia đình.
Kể từ đây người chết sẽ vĩnh viễn ra đi và những người còn sống rất ít khi nhắc tới họ bởi người Mông đen không có tập tục thờ cúng tổ tiên. Chỉ khi nào có các dịp lễ lớn hay có người trong nhà hay đau ốm thì họ mới làm lễ cúng cầu may mắn và gọi hồn người chết về lại thăm nhà.
2.4. Tục thờ cúng tổ tiên
2.4.1. Nguồn gốc
Như các dân tộc khác trên thế giới, từ thuở xa xưa dân tộc Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh. Họ thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội mà họ chưa thể giải thích được vào thời đó. Từ đó, hình thành nên tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Trong các loại tín ngưỡng thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một hình thức tín ngưỡng cơ bản và phổ biến của người Việt, bất kể họ ở đồng bằng hay miền núi, nông thôn hay thành thị, người giàu hay người nghèo...
2.4.2. Ý nghĩa của thờ cúng tổ tiên
Bày tỏ sự biết ơn luôn hướng về cội nguồn của mỗi người, với cội nguồn dân tộc. Theo quan niệm truyền thống, tổ tiên trước hết là những người cùng chung huyết mạch như ông bà, cha mẹ… là những đã sinh thành ra ta. Không chỉ vậy, tổ tiên còn là những bậc anh hùng có công bảo vệ làng xóm, đất nước, đánh đuổi giặc ngoại xâm…
Có thể nói, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên nhắc nhớ mỗi chúng ta, dù ở đâu, xa quê hương nhưng luôn tôn thờ và khắc ghi nguồn cội của mình. Thông qua đó, giáo dục
mỗi người luôn phải có trách nhiệm với quê hương đất nước, bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp mà tổ tiên ta đã dày công vun đắp. Phong tục này như sợi dây liên kết giữa những người sống và những người đã khuất, những người trên trần thế và những người ở thế giới tâm linh.
Theo quan niệm của người Việt, chết chưa phải là kết thúc, tổ tiên luôn bên cạnh dõi theo và phù hộ cho chúng ta trong cuộc sống. Nhờ vào hình thức tín ngưỡng này, người Việt bày tỏ sự biết ơn và lòng thành kính, tấm lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên với những người đã sinh thành dưỡng dục chúng ta. Chúng ta luôn tin rằng, sau khi mất, tổ tiên không bao giờ biến mất mà vẫn luôn sát cánh cùng con cháu và chúng ta nên làm tròn bổ phận đạo hiếu của một người con.
Trong mỗi gia đình Việt, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên truyền tải đạo lý sâu sắc “Uống nước nhớ nguồn” đã trở thành nét đẹp trong văn hóa của người Việt. Thông qua đó, mỗi con người hiểu được giá trị của “đạo hiếu” trong cuộc sống trong mối quan hệ với những người trong gia đình. Giá trị quý báu nhất tiềm ẩn trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt đó là lời răn dạy về lòng hiếu thảo.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên không chỉ là nét đẹp truyền thống của văn hóa dân tộc mà nó còn là bài học đạo đức vô giá trong tiềm thức của mỗi người. Nó răn dạy con người về đức hiếu thảo, hiếu sinh và hướng về cội nguồn…
2.4.3.Những biến đổi về hình thức thờ cúng tổ tiên xưa và nay
Từ sau đổi mới, các loại hình tôn giáo tín ngưỡng đều được coi là “trỗi dậy” sau một giấc ngủ dài. Đời sống tôn giáo trở nên sôi động. Cơ sở thờ tự các tôn giáo ngày càng được xây dựng, tu bổ khang trang hơn. Cùng với nó, số lượng tín đồ đến tham dự các hình thức nghi lễ tôn giáo cũng nhiều hơn.Thờ cúng tổ tiên cũng hòa mình vào xu thế chung đó. Thờ cúng tổ tiên trong các gia đình cũng ngày càng được chú trọng hơn. Nếu tôn giáo chỉ đáp ứng được nhu cầu tâm linh của một bộ phận người dân là tín đồ của tôn giáo đó thì thờ cúng tổ tiên đáp ứng nhu cầu tâm linh của đại bộ phận người Việt Nam.
Nếu trước đây, thờ cúng tổ tiên được tập trung tại nhà dòng trưởng (trưởng tộc, trưởng họ, trưởng chi, con trưởng) thì nay, mọi thành viên trong gia đình đều thờ cúng tổ tiên tại gia đình mình. Nhiều gia đình vẫn còn giữ được tục lệ cứ giỗ, Tết tập trung lại vào nhà con trưởng để làm giỗ.
Tuy nhiên, tại nhiều gia đình, ngày giỗ không còn là ngày con cháu tập trung như trước nữa. Hình thức cúng giỗ mang tính cộng đồng chung các thành viên trong gia đình được chuyển thành hình thức cúng giỗ cá thể. Mỗi thành viên trong gia đình làm lễ cúng giỗ người đã mất tại nhà mình.
Nếu trước kia, chúng ta còn bắt gặp những gia đình không có ban thờ tổ tiên trong nhà thì ngày nay nhà nào cũng có. Cùng với sự phát triển kinh tế, những trang thờ nhỏ bé hay những bát hương đặt tạm bợ trên nóc tủ…
Ngày nay, ban thờ với nhiều kiểu dáng mẫu mã trang nghiêm và đẹp mắt. Vị trí đặt ban thờ tổ tiên cũng được chú trọng. Ngày nay, để đặt một ban thờ, người ta không còn tùy tiện chỗ nào cũng được như trước mà cần phải xem hướng ban thờ, xem kích thước ban thờ về chiều cao, chiều dài, chiều rộng. Ngày đặt ban thờ hay bốc bát hương cũng là một sự kiện quan trọng của gia đình.
Đã bao thế kỷ trôi qua, cung cách và quan niệm thờ phụng tổ tiên của người Việt Nam xét theo góc độ nào đó đã có nhiều thay đổi nhưng ý nghĩa lớn nhất, vẫn giữ nguyên. Người Việt Nam coi việc thờ phụng tổ tiên là một trong những nguyên tắc đạo đức làm người. Đó là hình thức thể hiện sự hiếu thuận và lòng biết ơn của con cháu đối với các bậc sinh thành.


Câu hỏi ôn tập
1. Trình bày tục ăn trầu, nhuôm răng đen của người Việt. Theo anh/chị tục ăn trầu, nhuộm răng đen có còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay hay không? Vì sao?
2. Là một người làm trong ngành du lịch, anh/chị sẽ chia se những gì với người nước ngoài về tục ăn trầu ở Việt Nam?
3. Hãy trình bày những hiểu biết của mình về một tục lệ cưới hỏi của một dân tộc thiểu số ở Lào Cai. So sánh sự biến đổi tục cưới xin xưa và nay.
4. Trình bày những hiểu biết của mình về tang ma của người Việt. Hãy giới thiệu tang ma một dân tộc thiểu số ở Lào Cai.
GỢI Ý:
- Tên, nguồn gốc
- Thời gian, thời điểm thực hiện
- Thành phần tham gia
- Địa điểm thực hiện
- Đặc điểm
- Đặc trưng
- Mô phỏng lại tục lệ cưới hỏi của một dân tộc thiểu số ở Lào Cai
- Ý nghĩa của các tục lệ trong lễ cưới hỏi đó
Chương 2. TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
Giới thiệu
Chương này nhằm cung cấp một số kiến thức nền tảng như khái niệm, đặc điểm và một số tín ngưỡng dân gian trong tâm thức người Việt Nam.
Mục tiêu
- Trình bày được khái niệm, đặc điểm tín ngưỡng dân gian Việt Nam
- Giới thiệu và phân tích được một số loại tín ngưỡng dân gian Việt Nam thông qua các hình thức tự chọn. Có.ý thức giữ gìn, bảo tồn nét văn hóa tín ngưỡng tốt đẹp của người Việt.
- Nghiêm túc, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, tích cực nghe giảng trên lớp. Có ý thức rèn luyện các kỹ năng mô tả, thuyết trình, thảo luận nhóm. Tự tin, phối hợp khi làm việc độc lập hoặc theo nhóm.
Nội dung chính
1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN NGƯỠNG
1.1. Khái niệm
Nói về tín ngưỡng: Từ điển tiếng Việt định nghĩa tín ngưỡng là: “lòng tin và sự tôn thờ một tôn giáo” [Nguyễn Như Ý (chủ biên) 2004: 1646], tức là tín ngưỡng chỉ tồn tại trong một tôn giáo;
Theo giải thích của Đào Duy Anh, tín ngưỡng là: “lòng ngưỡng mộ, mê tín đối với một tôn giáo hoặc một chủ nghĩa” [Đào Duy Anh 1957: 283] ;
Ngô Đức Thịnh: “Tín ngưỡng được hiểu là niềm tin của con người vào cái gì đó thiêng liêng, cao cả, siêu nhiên, hay nói gọn lại là niềm tin, ngưỡng vọng vào “cái thiêng”, đối lập với cái trần tục, hiện hữu mà ta có thể sờ mó, quan sát được. Có nhiều loại niềm tin, nhưng ở đây là niềm tin của tín ngưỡng là niềm tin vào “cái thiêng”. Do vậy, niềm tin vào cái thiêng thuộc về bản chất của con người, nó là nhân tố cơ bản tạo nên đời sống tâm linh của con người, cũng như giống đời sống vật chất, đời sống xã hội tinh thần, tư tưởng, đời sống tình cảm...” [Ngô Đức Thịnh 2001: 16 ]
Trần Ngọc Thêm cho rằng, tín ngưỡng được đặt trong văn hóa tổ chức đời sống cá nhân: “Tổ chức đời sống cá nhân là bộ phận thứ hai trong văn hóa tổ chức cộng đồng. Đời sống mỗi cá nhân trong cộng đồng được tổ chức theo những tập tục được lan truyền từ đời này sang đời khác (phong tục).
Như vậy, khi đời sống và trình độ hiểu biết còn thấp, họ tin tưởng và ngưỡng mộ vào những thần thánh do họ tưởng tượng ra (tín ngưỡng). Tín ngưỡng cũng là một hình thức tổ chức đời sống cá nhân rất quan trọng. Từ tự phát lên tự giác theo con đường quy phạm hóa thành giáo lý, có giáo chủ, thánh đường… tín ngưỡng trở thành tôn giáo.
Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, các tín ngưỡng dân gian chưa chuyển được thành tôn giáo theo đúng nghĩa của nó - mới có những mầm mống của những tôn giáo như thế
- đó là Ông Bà, đạo Mẫu. Phải đợi khi các tôn giáo thế giới như Phật, Đạo, Kitô giáo… đã được du nhập và đến thời điểm giao lưu với phương Tây, các tôn giáo dân tộc như: Cao Đài, Hòa Hảo mới xuất hiện” [Trần Ngọc Thêm 1997: 262].
Tín ngưỡng: là hệ thống những niềm tin và cách thức biểu lộ đức tin của con người đối với những hiện tượng tự nhiên hay xã hội; nhân vật lịch sử hay huyền thoại có liên quan đến cuộc sống của họ nhằm cầu mong sự che chở, giúp đỡ từ những đối tượng siêu hình mà người ta thờ phụng.
1.2. Đặc điểm
Do Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên tương đối phong phú, đa dạng, người Việt sống chủ yếu dựa vào việc khai thác tự nhiên. Vì vậy, việc thờ cúng các vị thần tự nhiên (nhiên thần) đã sớm gần gũi với họ.
Địa hình Việt Nam là ngã ba đường nơi giao lưu của nhiều tộc người, của nhiều luồng văn minh nên Việt Nam trở thành một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Tính đa thần ấy không chỉ biểu hiện ở số lượng lớn các vị thần mà điều đáng nói là, các vị thần ấy cùng đồng hành trong tâm thức một người Việt. Điều đó dẫn đến một đặc điểm của đời sống tín ngưỡng - tôn giáo của người Việt đó là tính hỗn dung tôn giáo.
Trước sự du nhập của các tôn giáo ngoại lai, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà luôn có sự cải biến cho gần gũi với tư tưởng, tôn giáo bản địa. Tôn giáo là để phục vụ nhu cầu cần thiết, trực tiếp của con người trong cuộc sống.
Vì vậy, ở nước ta, trong khi các tôn giáo vẫn phát triển thì các tín ngưỡng dân gian vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân.
Chia thành 4 nhóm tín ngưỡng dân gian chính: Tín ngưỡng phồn thực
Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên Tín ngưỡng thờ cúng con người Tín ngưỡng thờ cúng thần linh
2. MỘT SỐ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN VIỆT NAM
2.1. Tín ngưỡng phồn thực
2.1.1.Ý nghĩa, nguồn gốc, tên gọi
Tín ngưỡng phồn thực là để duy trì và phát triển sự sống. Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam được thể hiện ở hai dạng: thờ cơ quan sinh dục của cả nam lẫn nữ (như linga, yoni) và thờ hành vi giao phối, khác biệt với một số nền văn hóa khác như Ấn Độ chẳng hạn, chỉ thờ sinh thực khí của nam giới.
Nguồn gốc và tên gọi: Tín ngưỡng phồn thực dựa trên quy luật khoa học để lý giải hiện thực và xây dựng triết lý âm dương, còn những trí tuệ bình dân thì xây dựng tín ngưỡng phồn thực (phồn nghĩa là nhiều, thực nghĩa là nảy nở).
2.1.2.Biểu tượng thờ cúng a.Thờ cơ quan sinh thực khí
Thờ sinh thực khí (sinh = đẻ, thực = nảy nở, khí = công cụ) là hình thái đơn giản của tín ngưỡng phồn thực. Nó phổ biến ở hầu hết các nền văn hóa nông nghiệp trên thế giới. Hầu hết các nền văn hóa khác là chỉ thờ sinh thực khí nam, tín ngưỡng phồn thực Việt Nam thờ sinh thực khí của nam lẫn nữ.
Việc thờ sinh thực khí được tìm thấy ở trên các cột đá có niên đại hàng ngàn năm trước công nguyên. Ngoài ra, nó còn được đưa vào các lễ hội, lễ hội ở làng Đồng Kỵ (Bắc Ninh) có tục rước cặp sinh thực khí bằng gỗ vào ngày mùng 6 tháng giêng, sau đó chúng được đốt đi, lấy tro than chia cho mọi người để lấy may.
b. Thờ hành vi giao phối
Là một đặc điểm thể hiện việc chú trọng đến các mối quan hệ của văn hóa nông nghiệp, nó đặc biệt phổ biến ở vùng Đông Nam Á.
Ví dụ như các hình nam nữ đang giao hòa được khắc trên mặt trống đồng tìm được ở làng Đào Thịnh (Yên Bái), có niên đại 500 trước công nguyên.
Ngoài hình tượng người, cả các loài động vật như cá sấu, gà, cóc,... cũng được khắc trên mặt trống đồng Hoàng Hạ (Hòa Bình).








