Tết Nguyên Đán muộn hơn Tết Dương lịch hay Tết Tây, thường rơi vào khoảng cuối tháng 1 đến giữa tháng 2 Dương lịch và nói chung kéo dài khoảng 5- 6 ngày, tạo điều kiện cho những thành viên gia đình sinh sống làm ăn ở nơi xa có thể về quê vui cảnh đoàn viên ít ngày.
Ý nghĩa thiêng liêng nhất của Tết ở chỗ nó không chỉ là dịp để người Việt nhớ về cội nguồn, ông bà tổ tiên mà là dịp đoàn tụ gia đình để nghỉ ngơi, vui chơi, ăn uống chào đón năm mới, chào đón sự khởi đầu mới, rũ bỏ những gì không hay đẹp của năm qua nên mọi người đều cố gắng vui vẻ độ lượng với nhau, bỏ qua hiềm khích cũ. Lòng người nào cũng tràn đầy hoài bão về hạnh phúc và thịnh vượng cho năm mới.
Người Việt có rất nhiều phong tục trong dịp Tết âm lịch như tặng quà tết cho người thân quen, quét dọn nhà cửa thật sạch, trang trí nhà cửa thật đẹp, mừng tuổi trẻ em - người già, chúc Tết, đi chùa để cầu nguyện những điều may mắn…


Ảnh: Phong tục gói bánh trưng và luộc bánh trưng ngày Tết
c. Kính già, yêu trẻ, trọng khách
Kính già, yêu trẻ, trọng khách là điểm người nước ngoài ghi nhận tại Việt Nam từ hàng trăm năm trước.
Việc kính trọng người cao tuổi không chỉ là một thuần phong mỹ tục của người Việt mà đó còn là bản sắc văn hóa dân tộc lại vừa có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng, sâu sắc. Người Việt Nam rất kính trọng người cao tuổi vì niềm tin rằng người cao tuổi là người có nhiều kinh nghiệm sống và nhất là “kính lão đắc thọ” (tức khi kính trọng người cao tuổi thì chúng ta sẽ sống thọ hơn).
Việc kính trọng người già trước hết phải bắt đầu ngay trong gia đình: Phải kính trọng cha mẹ - người đã sinh thành dưỡng dục con cái nên người.
Có thể bạn quan tâm!
-
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 1 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 3 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 4 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 5 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 6 -
Phong tục tập quán và lễ hội Việt Nam ngành Hướng dẫn du lịch - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

Ảnh: Phong tục Tết xưa
1.2. Đặc điểm
Có nguồn gốc từ lâu đời, được hình thành từ những thói quen lâu đời của nhân dân, dần được đa số nhân dân công nhận và lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Phong tục bao gồm cả tập tục tốt đẹp và hủ tục.
Là cơ chế bên trong, nó điều khiển, điều chỉnh hành vi, lối sống của một nhóm người hay một xã hội . Phong tục tập quán bị ảnh hưởng bởi các lễ giáo và tục lệ địa phương
Luôn mang tính ổn định, bền vững, nó có tính bảo thủ, nhưng có tác động tâm lý mạnh mẽ tới các thế hệ sau và tinh thần con người.
2. PHONG TỤC TẬP QUÁN CỔ TRUYỀN
2.1. Tục ăn trầu
Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện của phong cách, vừa là thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Miếng trầu là đầu câu chuyện: với người dân Việt Nam, miếng trầu thắm têm vôi nồng cùng cau bổ tám bổ tư, vỏ chay rể quạch luôn là sự bắt đầu, sự khơi mở tình cảm.
Trong đời sống hàng ngày, “miếng trầu là đầu câu chuyện”, biểu hiện mối giao cảm tâm tình của con người. Trầu được dùng mời khách đến chơi nhà, làm quen với nhau nơi hội hè, đình đám. Trầu cau gắn bó với người Việt đến mức nó đã trở thành lễ vật không thể thiếu trong các nghi thức tâm linh như: lễ tế trời đất, lễ Phật, lễ thánh, thần, lễ gia tiên, lễ cưới…
Miếng trầu làm người với người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Với các nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu hát, để vào với hội làng, hội nước. Miếng trầu còn là tượng trưng cho tình yêu lứa đôi: miếng trầu đi đầu, tác hợp cho lứa đôi và là sợi dây kết chặt mối lương duyên trai, gái thành vợ thành chồng. Sự tích trầu cau là truyện cổ tích Việt Nam về tục ăn trầu của người Việt, ca ngợi tình nghĩa thủy chung, tình cảm anh em thuận hòa, vợ chồng tiết nghĩa của người Việt qua hàng ngàn năm qua.


Ảnh: Trầu cau trong văn hoá người Việt
Trầu cau còn là đồ cúng lễ, ngày giỗ. Dân gian có câu "Sửa cơi trầu, đĩa hoa dâng cụ" để tưởng nhớ tổ tiên, để ghi nhớ công ơn nuôi nấng sinh thành của bậc tiền nhân, Tết về, trầu cau còn là quà tặng.
Miếng trầu tuy đơn giản nhưng mang nhiều ý nghĩa sâu đậm trong đời sống văn hóa người Việt. Để làm ra một miếng trầu ngon không thể thiếu bộ dụng cụ ăn trầu, nên chúng cũng rất cầu kỳ và phức tạp.
Dụng cụ để ăn trầu là: cơi trầu, là dao bổ cau, chiếc âu trầu, bình vôi, chìa vôi, ống vôi, khăn, túi đựng trầu. Nhà giàu còn đựng được tráp trầu, khay trầu sơn màu khảm trai rất đẹp. Những vật dụng dùng trong tục ăn trầu giờ đây đã trở thành di sản của một phong tục tập quán tốt đẹp được lưu giữ mãi trong mỗi người Việt chúng ta. Trầu cau gắn liền với sinh hoạt của nông thôn ta chặt chẽ và lâu đời. Trầu dùng tiếp khách hàng ngày cũng như bát chè xanh, như điếu thuốc lào.
Cho tới ngày nay, tuy tục ăn trầu và mời trầu ít phổ biến như xưa nhưng lá trầu vẫn mang một ý nghĩa sâu xa, mang một ý nghĩa nhất định trên nhiều lĩnh vực như y học, tâm lý xã hội, bản sắc truyền thống dân tộc. Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng - răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào.
*Tục nhuộm răng đen
Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bỏ công trang điểm má hồng răng đen…
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hột huyền kém thua…


Ảnh: Thiếu nữ răng đen trước năm 1930 và phụ nữ dân tộc Lự nhuôm răng đen
Tục nhuộm răng là tục cổ xưa của dân tộc Việt, có từ thời các vua Hùng với tục ăn trầu. Sứ thần của nước Văn Lang (Giao Chỉ) trả lời vua nhà Chu (Trung Quốc) về tục ăn trầu: “Chúng tôi có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen”.
Nhuộm răng là một trong những phong tục xưa của nhiều dân tộc ở Đông Á, như Việt Nam, Nhật Bản, Malaysia và miền Nam Trung Quốc.
Tại Việt Nam, ngoài người Kinh, các dân tộc khác như Thái, Si La, Tày, Dao đều có tục này; nhưng mỗi nơi, mỗi dân tộc đều có cách nhuộm răng khác nhau về ý nghĩa, thẩm mỹ, sức khỏe và chất liệu sử dụng trong lúc nhuộm.
Cho đến giữa thế kỷ XX, nam nữ người Việt còn nhuộm răng đen bằng bột nhựa cánh kiến. Người Thái, Kháng, Lào, Lự đốt cành cây may cu, may tửu hay may me cho nhựa chảy xuống một mảnh kim loại hoặc ống tre, thêm một ít nước rồi mài đều tạo độ dính để nhuộm răng. Buổi tối trước khi đi ngủ, người ta làm sạch răng, rồi dùng tay quệt nhựa bôi vào răng 3-4 lần. Cách 2 - 3 ngày họ nhuộm lại cho răng đen bóng. Trước kia, răng đen là một tiêu chuẩn về vẻ đẹp của phụ nữ; các cô gái 12-13 tuổi đã bắt đầu nhuộm răng. Ngày nay, chỉ những người cao tuổi mới còn có răng đen.
2.2. Tục cưới hỏi
2.2.1.Nguồn gốc, ý nghĩa
Tục cưới hỏi được hình thành từ rất lâu đời. Có rất nhiều cách để nói về việc cưới hỏi này như: đám cưới, giá thú, lễ thọ mai, vu quy, hôn lễ. Tuy nhiên, đây là không những là hoạt động của hai bên gia đình kết thông gia, cô gái được gả cho chàng trai mà còn là một việc vui của cả gia đình và họ hàng. Tục cưới hỏi mang ý nghĩa duy trì nòi giống.
- Lễ vật: đối với từng lễ của tục cưới hỏi thì số lượng và thành phần lễ vật khác nhau. Tuy nhiên lễ vật chủ yếu là: trầu cau, xôi thịt, gà, rượu, chè thuốc và tiền.
- Thời điểm: vào những ngày lành tháng tốt, hợp tuổi với đôi trẻ mà gia đình hai bên đã chọn, chủ yếu là mùa xuân.
- Thành phần: Gia đình hai bên họ hàng, cô dâu - chú rể, quan khách, chủ hôn, có thể có người mai mối.
- Các nghi lễ: Tục cưới hỏi truyền thống gồm có 8 lễ: lễ dạm ngõ, lễ vấn danh, lễ ăn hỏi, lễ rước dâu, lễ xin dâu, lễ đón dâu, lễ hợp cẩn, lễ lại mặt. Tuy nhiên, ngày nay tục cưới hỏi được rút gọn thành 3 lễ chính: Lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Một số nơi vẫn còn thực hiện lễ lại mặt.
+ Lễ dạm ngõ (chạm ngõ): là việc nhà trai mang lễ vật sang nhà gái để hỏi ý, thỏa thuận với nhà gái về việc kết tóc, se duyên cho đôi trẻ.
+ Lễ ăn hỏi: là lễ được thực hiện sau lễ dạm ngõ, nhằm mang tính chính thức thông báo với hàng xóm và mọi người biết cô gái đã có nơi có chốn và hai bên gia đình thống nhất xe ngày lành tháng tốt để tiến hành hôn lễ.
+ Hôn lễ (lễ cưới, đám cưới): là công việc chính thức thừa nhận duyên vợ chồng của đôi trẻ. Hiện nay, lễ cưới kết hợp cùng nhiều lễ khác như xin dâu, rước dâu,…
+ Lễ lại mặt
Sau khi đám cưới hai bên gia đình kết thúc thì hai bên gia đình sẽ gặp mặt nhau. Thời điểm thường vào ngày thứ hai hoặc thứ tư sau ngày cưới. Cuộc gặp mặt này giúp hai bên gia đình thêm gắn kết tình cảm và mở rộng mối quan hệ.
2.3. Tục ma chay
Phong tục tang ma của người Việt bao gồm nhiều quy trình, nhiều nghi thức khác nhau. Trải qua nhiều thời kì nghi thức này đã có nhiều thay đổi tuy nhiên vẫn phải bao gồm các nghi thức chính kể từ khi có người qua đời: Lễ khâm liệm; Lễ nhập quan; Lễ viếng; Lễ đưa tang; Lễ hạ huyệt và lễ viếng mộ.
2.3.1. Lễ khâm liệm
Đây là một trong những bước chuẩn bị cho người đã khuất đi về thế giới bên kia. Là bước cần thiết trước khi tiến hành nhập quan và phát tang, cáo phó cho người thân và mọi người đến viếng.
Theo phong tục tang ma của người Việt, người vừa mất được thân nhân tắm gội sạch sẽ bằng nước thơm, cắt móng chân móng tay sau đó gói lại cẩn thận để đặt vào quan tài. Khi tắt thở, con cháu vuốt mắt thay quần áo mới, thường là bộ quần áo may trắng được chuẩn bị từ trước. Sau đó, người mất được buộc hai ngón chân cái với nhau, để hai tay lên bụng, vai bó bằng dây vải và bỏ một ít gạo sống vào miệng.
Người dân quan niệm: tiền và gạo phàm hàm đó là lương thực và lộ phí cho người chết hành trình sang cõi âm. Việc ngáng đũa trong miệng về mặt khoa học là để tử
khí trong cơ thể có lối thoát ra. Nhưng theo quan niệm thì chết ngậm miệng là cái chết không thanh thản còn nhiều ngậm ngùi, giằng xé với trần gian.
Người mất được đặt nằm trên giường, buông màn rồi thắp một ngọn đèn nơi đầu giường, thi hài của người đã mất có thể để như vậy đợi người thân về. Tuy nhiên, không được quá ba ngày.
Đặc biệt, để người mất ra đi thanh thản con cháu dù đau đớn cũng không được khóc thành tiếng sẽ khiến người chết không thể nhẹ nhàng ra đi.
Nghi thức khâm liệm: được tiến hành sau hồi dài kèn trống, người thân dùng vải trắng hoặc đỏ để gói thân thể người mất và đặt vào áo quan, gáy được gối lên hai chiếc bát ăn cơm úp, một số vùng còn đem một bộ tam cúc bỏ vào trong ván để trừ trùng. Với những người chết có bệnh, người ta dùng cám rang hoặc gạo rang giã nhỏ có khi là chè khô trải phía trong ván để hút nước và khử mùi.
2.3.2. Lễ nhập quan
Trước khi nhập quan thời xưa thường phải làm lễ phạt mộc, bằng cách cầm nén nhang đang cháy, đọc chú, chém khẽ vào áo quan 3 nhát (đầu, cuối, cạnh bên cỗ áo quan) để trừ khử hết lũ ma quái đi, tránh ám hại người chết và gieo tai họa cho người sống (tang gia).
Khi nhập quan, thân nhân có mặt đứng theo thứ tự gần rồi đến xa, xưa có quy định: con trai đứng bên trái, con gái đứng bên phải người chết, cổ tục có nói những người kị tuổi với người chết và giờ chết trong vòng con cháu ruột thịt phải lánh mặt ra chỗ khác để phòng ngừa tai họa về sau.
Lưu ý: Không nâng thi hài trực tiếp bằng tay để nhập quan. Khi đặt thi hài vào quan tài cần chuẩn bị gối bông nhỏ, vải mềm nhiều lớp để kê, đệm, lót làm cho thi thể cố định một khối với quan tài (kê phần đầu phải cao hơn phần thân) .
Nhập quan xong đặt quan tài vào đúng vị trí thờ, lúc này con cháu kị tuổi được phép trở về để cùng với mọi người thực hiện nghi lễ của việc tang.
Kể từ lúc nhập quan đến đưa tang, trên quan tài luôn được thắp nến: cha thì thắp 7 ngọn, mẹ thì thắp 9 ngọn nến đỏ, giữa mặt ván quan tài đặt một bát cơm bông trên có một quả trứng gà luộc đã bóc vỏ và được kẹp bằng một đôi đũa bông, bát cơm sẽ được đặt trên mộ sau khi chôn cất.
2.3.3. Lễ viếng
Lễ viếng được tiến hành trang nghiêm, mọi người xếp hàng để viếng, tang gia sẽ ngồi cạnh quan tài cúi đầu cảm ơn những người đến chia buồn cùng với gia đình.
*Lưu ý: đi viếng đám tang cần kiêng kị Không mặc lòe loẹt và cười nói ầm ĩ
Người cao tuổi, phụ nữ có thai và người bị chó dại cắn kiêng đi viếng đám tang. Không nên bật nhạc điện thoại chuông to khi đi viếng đám tang.
Nếu đi viếng đám tang lỡ người quá cố ấy có đẹp trai hay xinh gái không được khen.
Ra đường gặp đám tang ngược chiều phải xuống xe ngả mũ nón dắt bộ qua đám tang rồi mới lên xe, ô tô thì chậm lại không bóp còi, đi cùng chiều không tiện xuống xe thì đi chậm lại và ngả mũ.
Khi đi viếng đám tang về đặt sẵn ở cửa ra vào một lò than đốt vỏ bưởi và quả bồ kết để trừ uế khí .
2.3.4. Lễ đưa tang
Thầy cúng hoặc tang chủ cùng con cháu nội ngoại thực hiện lễ tiễn biệt người quá cố về nơi an nghỉ cuối cùng, mọi người theo thứ tự trong nội ngoại gia tộc xếp hàng trước bàn thờ vong.
Thầy cúng hoặc tang chủ thực hiện các bước thắp hương, dâng rượu, nước trang nghiêm như lễ phát tang và đọc lời ai điếu tiễn biệt lần cuối, con cháu thành kính bái lễ.
Khi di quan phải thật sự chậm rãi, từ từ từng nửa bước chân một, vừa thể hiện nỗi đau tiễn biệt muốn níu kéo lại cũng là vừa đảm bảo cho quan tài luôn được thăng bằng, để người ra đi tròn giấc ngủ yên lành;
Đi đầu là hai phương tướng mặc áo mũ đạo sĩ đeo mặt nạ, cầm dao hoặc binh khí để trừ tà ma, rồi đến đoàn người vác cờ tang, tiếp là minh binh, vòng hoa, trướng, câu đối, linh xa, phường bát âm có phèng phèng thanh la kèn, trống, đến đoàn khiêng nhà táng, sau cùng là đoàn đi đưa ma.
2.3.5. Lễ hạ huyệt
Trước khi hạ huyệt người ta phải làm lễ cúng thổ thần để xin phép được an táng người chết tại nơi đây. Cúng thổ thần xong, linh cữu mới được hạ huyệt.
Đợi tới giờ hoàng đạo người ta đặt linh cữu xuống, lúc đó thầy địa lý dùng la bàn gióng hướng phúc lại cho đúng;
Khi hạ huyệt con trai trưởng lấp hòn đất đầu tiên, sau đó tới các con lần lượt ném xuống nắm đất với ý nghĩa con cái đắp mộ cho cha mẹ.
Các cụ đội cầu kiều đi vòng quanh mộ cầu kinh xong xuôi đám tang trở về nhưng phải theo con đường khác, tránh không về bằng con đường lúc đi và cũng không được khóc nữa, vì như vậy hồn người chết sẽ biết lối mà theo về.
2.3.6. Lễ ấp mộ, viếng mộ
Trong ba ngày sau khi hạ huyệt, vào mỗi buổi chiều, con cháu đem cơi trầu đến mộ mà khóc lóc gọi là ấp mộ. Việc này nghĩa là đem hơi nóng của tình thân gia đình làm cho mộ đỡ lạnh.
Đến ngày thứ a con cháu đắp sửa lại mộ, lễ này được gọi là cúng mở cửa mả. Cũng từ ngày đó trở đi ngày nào cũng cúng cơm một hoặc hai buổi cho đủ 100 ngày. Có nơi cúng hết tang là 3 năm.
2.3.7. Các nghi thức sau tang lễ
* Tuần chung thất (49 ngày): Gia chủ làm lễ thất cho đến khi được tuần thứ 7 thì làm lễ chung thất, thôi cúng cơm cho người chết.
Việc cúng cầu siêu như vậy có tác dụng nhắc nhở gợi cho người quá vãng hướng tâm về các thiện sự đã làm hoặc thiết tha thực hiện những tư tưởng tốt đẹp, nhờ đó thần thức được tái sinh về cảnh giới tốt đẹp hơn.
+ Tuần tốt khốc (100 ngày): Khi người chết được 100 ngày gia chủ làm lễ tốt khốc (thôi khóc), gia chủ thường mời thầy cúng đốt tang phục, đốt nhà cho người chết và đưa di ảnh người chết lên bàn thờ tổ tiên.
+ Giỗ đầu (Tiểu tường): Sau một năm âm lịch, gia đình người chết sẽ tổ chức giỗ đầu nhằm mục đích nhớ về người đã khuất.
+ Mãn tang (Đạt tường): Sau khi người chết được 3 năm gia chủ làm lễ hết tang.
2.3.8. Trang phục và hoa trong tang lễ
a. Trang phục
Trang phục trong tang lễ biểu thị mối quan hệ họ hàng, anh em gần - xa với người đã khuất, tùy theo địa vị của từng người trong gia đình mà trang phục sẽ khác nhau.
Con trai con rể trong đám tang mặc bộ trang phục thảm trôi nghĩa là may áo nhưng không cắt khâu cẩn thận mà để mép vải xơ ra, áo dài đến đùi gối, rộng, tay thụng bằng vải thô và buộc sợi dây ngang lưng đội mũ rơm;
Con gái, con dâu cũng mặc trang phục thảm trôi nhưng không cần đội mũ rơm và đeo dây, chỉ xõa tóc và không đeo dép;
Cháu nội, ngoại và anh em họ hàng ruột thịt buộc mọt tấm khăn màu trắng để tỏ lòng thương tiếc và mang ý nghĩa là cùng chịu tang với người thân của mình.
b. Hoa
Với mỗi bông hoa có mặt trong cuộc sống của chúng ta này đều sẽ mang trong mình một sứ mệnh một ý nghĩa khác nhau. Vì thế mà đôi khi không phải ngẫu nhiên chúng lại có mặt trong các buổi tiệc vui mừng hay lại hiện diện trong những khoảnh






