Xây Dựng Giả Thuyết Nghiên Cứu Và Mô Hình Nghiên Cứu

vật liệu xây dựng, vật liệu xây không nung được chính phủ định hướng phát triển tại Việt Nam.

Nghiên cứu trước đây nhấn mạnh các nghiên cứu tương lai có thể tích hợp nhiều lý thuyết hơn nữa để hiểu biết đầy đủ hơn về cách thức chính sách hỗ trợ của chính phủ ảnh hưởng đến mối quan hệ MO và đổi mới (Cai và cộng sự, 2015). Trong luận án này, tác giả tích hợp các lý thuyết gồm lý thuyết dựa vào nguồn lực, marketing B2B, lý thuyết các bên có liên quan, lý thuyết thể chế hướng đến khám phá và hiểu rõ hơn hỗ trợ thể chế của chính phủ ảnh hưởng đến mối quan hệ MO và năng lực đổi mới.

2.5 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu

Như đã đề cập trong mục 2.2. Các lý thuyết có liên quan đến luận án, lý thuyết dựa vào nguồn lực RBT là lý thuyết trung tâm làm nền tảng đề xuất mô hình nghiên cứu của luận án. Lý thuyết dựa vào nguồn lực kết hợp với các lý thuyết các bên có liên quan, marketing B2B, lý thuyết thể chế để kế thừa các khái niệm và mối quan hệ giữa các khái niệm. Theo đó, giả thuyết trong mô hình nghiên cứu đề xuất được thiết lập như sau:

2.5.1 Tác động hỗ trợ của chính phủ đối với định hướng thị trường, năng lực đổi mới trong mối quan hệ kênh công nghiệp và phát triển thị trường của nhà sản xuất. Sự can thiệp của chính phủ là một trong những nhân tố quan trọng trong cấu trúc

ngành (Litman, 1998). Sự can thiệp của chính phủ chính là các quy định, chính sách của

chính phủ trong ngành (O'Brien và cộng sự, 2004). Các ứng dụng chính sách của chính phủ thúc đẩy hành vi của các doanh nghiệp trong ngành bao gồm thúc đẩy đầu tư vào công nghệ sản xuất mới hoặc hỗ trợ liên doanh và các mối quan hệ lâu dài có liên quan cải thiện hoạt động mối quan hệ (O'Brien và cộng sự, 2004). Các nghiên cứu trước đây của lý thuyết thể chế cho thấy chính phủ đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong định hình trực tiếp tốc độ thay đổi các thể chế cũng như thực hiện các chính sách, quy tắc và quy định hướng dẫn những thay đổi này do những thiếu sót hoặc thất bại trong cách môi trường thể chế hỗ trợ giao dịch kinh doanh (Stephan và cộng sự, 2015). Theo đó, chính phủ thường hoạt động như những người gác cổng giúp các công ty vượt qua tác động bất lợi, thực thi không đầy đủ về sắp xếp thể chế hoặc rối loạn chức năng cạnh tranh (Li và Atuahene-Gima, 2001; Shu và cộng sự, 2015; Stephan và cộng sự, 2015). Bên cạnh đó, các công ty có thể lớn dần lên thông qua việc các công ty căn chỉnh lại các chiến lược và hành vi của họ phù hợp với các thông số và kỳ vọng cần thiết để nhận hỗ trợ của chính phủ (Sheng và cộng sự, 2011). Hỗ trợ của chính phủ giúp nhiều ngành công nghiệp chuyển đổi cho việc cung thị trường không đủ để duy trì sự phát triển quy mô (Chung và Yoo 2015) do việc mở rộng kinh tế hạn chế sự phát triển một số ngành công nghiệp truyền thống. Kirca và cộng sự (2011) nhận thấy môi trường thể chế gồm các tổ chức pháp lý, chính sách và cường độ cạnh tranh là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện định hướng thị trường của công ty. Từ lập luận này, tác giả kỳ vọng rằng:

H1a. Hỗ trợ của chính phủ tác động cùng chiều đến định hướng thị trường của nhà sản xuất

Cũng với cách tiếp cận lý thuyết thể chế và RBT, vai trò của chính phủ (hỗ trợ của chính phủ) sẽ liên quan đến các lựa chọn chiến lược của doanh nghiệp (Scott, 1995;

51

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.

Shu và cộng sự, 2015; Shu và cộng sự, 2016). Bản chất của phương thức / các loại năng lực đổi mới có ý nghĩa đối với những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến đổi mới cả ngành tạo ra sự phát triển ngành (Martin & Scott, 2000). Vì vậy, các hình thức hỗ trợ công hiệu quả sẽ tác động đến đổi mới tư nhân (Martin & Scott, 2000). Shu và cộng sự (2015) chỉ ra hỗ trợ của chính phủ có thể là hỗ trợ nguồn lực độc quyền cho phép công ty để đổi mới hiệu quả hơn. Du và Li (2019) xem xét các tác động hỗ trợ của chính phủ đối với đổi mới của công ty dựa trên phía cung. Shu và cộng sự (2019) hỗ trợ của chính phủ tăng cường đổi mới chiến lược. Do đó, tác giả giả thuyết rằng:

H1b. Hỗ trợ của chính phủ tác động cùng chiều đến năng lực đổi mới của nhà sản xuất

Phát triển thị trường vật liệu xây không nung đồng bằng sông Cửu Long - 9

Nhu cầu ngày càng tăng của các bên liên quan trong xây dựng thúc đẩy các công ty xây dựng áp dụng các thực hành bền vững xã hội khi thực hiện các dự án xây dựng. Bamgbade và cộng sự (2017) xác nhận các công ty xây dựng yêu cầu tuân thủ các quy định của chính phủ và tận dụng các hỗ trợ của chính phủ để tạo điều kiện cho các định hướng thị trường nhằm cải thiện hoạt động bền vững. Tse và cộng sự (2021) giành được sự hỗ trợ của chính quyền địa phương là một chiến lược chủ động mà các công ty có thể sử dụng để tiếp cận các nguồn lực bổ sung từ chính quyền địa phương như khách hàng và kênh phân phối. Hỗ trợ của chính phủ cho các doanh nghiệp có thể dưới các hình thức khác nhau, chẳng hạn như trợ cấp, ưu đãi thuế, phòng thí nghiệm do nhà nước tài trợ.

Hiện nay, các chính sách định hướng phát huy sản xuất các cơ sở sản xuất hiện có, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, phát triển VLXKN thành một ngành công nghiệp tiên tiến (Thủ tướng Chính phủ, 2020). Chính phủ quy định rõ ràng VLXKN được sử dụng VLXKN bắt buộc trong hầu hết các công trình công trình xây dựng được đầu tư bằng nguồn vốn đầu tư công, vốn nhà nước ngoài đầu tư công ở thành phố lớn ở mức tối thiểu 90% và công trình ở từng tỉnh, thành tối thiểu 70% VLXKN so với tổng lượng vật liệu xây trong giai đoạn 2025, và tăng lên 100% trong giai đoạn đến năm 2030 (Thủ tướng Chính phủ, 2020). Ngoài ra, chính phủ còn chỉ đạo việc xây dựng và ban hành hướng dẫn thi công, nghiệm thu khối xây VLXKN cũng như rà soát, bổ sung và ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật về sử dụng VLXKN trong công trình xây dựng (Bộ Xây dựng, 2017, 2020c; Thủ tướng Chính phủ, 2020). Dựa vào đây có thể lập luận rằng, hỗ trợ của chính phủ có kích thích hoạt động của các doanh nghiệp sử dụng VLXKN. Các doanh nghiệp sử dụng VLXKN này cũng phần nào tận dụng các chính sách này để có được khách hàng có dự án công triển khai từ các tỉnh, thành. Hỗ trợ của chính phủ đã phần nào tác động đến định hướng thị trường của các khách hàng doanh nghiệp của các nhà sản xuất VLXKN. Vì vậy, tác giả lập luận rằng:

H1c. Hỗ trợ của chính phủ tác động cùng chiều đến định hướng thị trường của khách hàng doanh nghiệp của nhà sản xuất.

Sự hỗ trợ của chính phủ có thể làm tăng nhu cầu đối với sản phẩm của một công ty bằng cách đóng vai trò như một tín hiệu chất lượng, nâng cao uy tín của công ty trên thị trường và quảng bá hình ảnh sản phẩm mới của họ (C.-Y. Lee, 2011). Sự hỗ trợ của chính sách công có xu hướng có tác động bổ sung cho nghiên cứu và phát triển đối với các doanh nghiệp tư nhân có năng lực công nghệ thấp, đối với các doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành công nghệ cao (C.-Y. Lee, 2011). Điều này kích thích sự chuyển

52

đổi và phát triển doanh nghiệp tốt hơn. Sự can thiệp của chính phủ và sự phát triển thị trường là bổ sung cho nhau (Wang và cộng sự, 2021). Tse và cộng sự (2021) đã chứng minh hỗ trợ của chính phủ thực tế có tác động đến doanh số sản phẩm mới của công ty. Trong trường hợp VLXKN ĐBSCL, nhiều chính sách của chính phủ cũng trực tiếp ảnh hưởng đến nhà sản xuất đầu tư vào VLXKN, đã có những kết quả bước đầu đáng khích lệ (Bộ Xây dựng, 2020a, 2020b). Do đó, tác giả giả thuyết rằng:

H1d. Hỗ trợ của chính phủ tác động cùng chiều đến phát triển thị trường của nhà sản xuất.

2.5.2 Tác động định hướng thị trường của nhà sản xuất và định hướng khách hàng doanh nghiệp của nhà sản xuất

Tác giả lập luận định hướng thị trường trên quan điểm lý thuyết dựa vào nguồn lực (RBT). Xét mối quan hệ này ở các đối tác trong mối quan hệ các bên có liên quan, khách hàng doanh nghiệp trong kênh tiêu thụ. Định hướng thị trường hướng đến tạo thông tin thị trường, phổ biến thông tin thị trường và đáp ứng thông tin thị trường (!!! INVALID CITATION !!! ). Theo lý thuyết các bên có liên quan, công ty phải thỏa mãn nhu cầu của các bên có liên quan. Điều này chỉ ra rằng chất lượng sản phẩm và dịch vụ mà công ty đầu mối có thể cung cấp cho khách hàng (tức là khía cạnh đáp ứng của định hướng thị trường) bị ảnh hưởng trực tiếp bởi mức độ định hướng thị trường của chính họ. Như Porter (1996, trang 73) có đề cập sự phù hợp sử dụng chiến lược trong nhiều hoạt động doanh nghiệp là cơ bản và bền vững. Kết hợp lý thuyết dựa vào nguồn lực và lý thuyết các bên có liên quan cần xem xét trong marketing B2B, vận hành thị trường được các doanh nghiệp thực hiện định hướng thị trường ra bên ngoài doanh nghiệp. Anderson và Weitz (1992, p. 20) nói rằng "theo thời gian, các thành viên kênh trong quá trình hợp tác có thể thể hiện hành động và ý định thực sự của họ với nhau." Do đó, các hành vi định hướng thị trường thực tế của một đối tác kênh sẽ ảnh hưởng đến nhận thức về định hướng thị trường đó. Xét trong phạm vi sản xuất – tiêu thụ, định hướng thị trường ngụ ý rằng một công ty định hướng thị trường sẽ thu thập thông tin, phổ biến thông tin trong tổ chức và thực hiện các thay đổi dựa trên thông tin đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp và tích cực đến sự hài lòng của khách hàng (tức là đối tác) (!!! INVALID CITATION !!! (Gligor và cộng sự, 2019; Siguaw và cộng sự, 1998)).

Từ nghiên cứu trước đây, sự hài lòng của khách hàng được thể hiện về định hướng thị trường khi thành viên kênh tiêu thụ chấp nhận định hướng thị trường có thể mang lại lợi ích đáng kể cho các đối tác trong mối quan hệ kênh (Siguaw và cộng sự, 1998). Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, xem xét đầu mối là công ty sản xuất (nhà sản xuất), nhà sản xuất càng định hướng thị trường thì nhà sản xuất càng nhận ra rằng họ phụ thuộc vào các đối tác kênh tiêu thụ của mình để đáp ứng nhu cầu của người dùng sản phẩm cuối cùng hiện tại và tương lai (Kibbeling và cộng sự, 2013). Nhà sản xuất càng hướng đến đối tác kênh thì nhà sản xuất sẽ hiểu rõ ràng hơn nhu cầu của đối tác trực tiếp ở hiện tại và trong tương lai. Ngoài ra, Gligor và cộng sự (2021) cung cấp bằng chứng cách thức tương tác giữa định hướng thị trường của công ty đầu mối (MO) ảnh hưởng đến MO của nhà cung cấp chính của công ty đầu mối đó. Hơn nữa, nhu cầu càng rõ ràng, những nhà quản lý của các công ty sản xuất càng hướng sự chú ý và phân bổ nguồn lực của công ty để tạo ra những ý tưởng mới, cải tiến và thử nghiệm chúng nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ đáp ứng với nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp và người

53

dùng cuối. Nhà sản xuất có định hướng thị trường sẽ hiểu rõ ràng hơn nhu cầu của người dùng hiện tại và trong tương lai đồng thời sử dụng nguồn lực tốt hơn cải tiến sản phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu người dùng cuối. Những động thái từ khách hàng doanh nghiệp cũng giúp nhà sản xuất có được những phản ứng cần thiết để đáp ứng nhu cầu của mình. Nhà sản xuất (công ty đầu mối) có định hướng thị trường sẽ ngày càng nhận ra rằng các khách hàng doanh nghiệp cần hướng tới người dùng cuối - đó là yếu tố quan trọng cho sự thành công của công ty đầu mối. Do đó, công ty đầu mối sẽ ưu tiên chọn các khách hàng doanh nghiệp hướng đến người dùng cuối. Chính vì vậy, tác giả kỳ vọng rằng:

H2. Định hướng thị trường nhà sản xuất tác động cùng chiều đến định hướng thị trường của khách hàng doanh nghiệp

2.5.3 Tác động của định hướng thị trường và phát triển thị trường của nhà sản xuất

Theo RBT, định hướng thị trường thể hiện thiết lập thông tin toàn tổ chức, phổ biến và đáp ứng thông tin cho khách hàng và đối thủ của tổ chức (!!! INVALID CITATION !!! ) (Deshpandé & Farley, 1998; Jaworski & Kohli, 1993; Narver & Slater, 1990 ). Kể từ đó, mối quan hệ giữa định hướng thị trường và hiệu quả kinh tế đã được nghiên cứu trong bối cảnh các công ty thương mại (Herhausen, 2016). Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cung cấp kết quả cho thấy mối quan hệ tích cực giữa định hướng thị trường và nhận thức của người quản lý về hiệu suất kinh doanh (Jaworski & Kohli, 1993), tăng trưởng doanh số (Slater & Narver, 1994a, 1994b) và nhận thức của người quản lý về hiệu suất sản phẩm mới (Atuahene - Gima, 1996; Slater & Narver, 1994a). Đến nay, vẫn có nghiên cứu chứng minh định hướng thị trường và kết quả kinh doanh là không rõ ràng .Cụ thể, không có ảnh hưởng trực tiếp đến định hướng thị trường về hiệu suất thị trường sản phẩm mới (Atuahene-Gima, 1996), thị phần hoặc tăng trưởng thị phần (Pelham & Wilson, 1996), tăng trưởng doanh thu bán hàng (N. A. Morgan và cộng sự, 2009). Kirca và cộng sự (2005) đã chứng minh được định hướng thị trường ảnh hưởng tích cực đến các biến số khác nhau liên quan đến hoạt động của công ty, chẳng hạn như sự phát triển thị trường, doanh số bán hàng, thị phần, chất lượng cảm nhận, lòng trung thành của khách hàng và sự hài lòng chung thông qua phân tích tổng hợp các tài liệu trước đây (meta – analysis). Nói cụ thể hơn, nhà sản xuất tập trung mạnh hơn vào việc hiểu và thỏa mãn nhu cầu cũng như nhu cầu của khách hàng sẽ dẫn đến doanh số, tăng khả năng giữ chân khách hàng, tìm kiếm được khách hàng mớivà tăng thị phần cao hơn trong dài hạn trên thị trường. Do vậy, trong trường hợp nghiên cứu này, tác giả cũng kỳ vọng:

H3. Định hướng thị trường nhà sản xuất tác động cùng chiều đến đến phát triển thị trường của nhà sản xuất

2.5.4 Tác động định hướng thị trường của nhà sản xuất và định hướng thị trường của khách hàng doanh nghiệp đến năng lực đổi mới của nhà sản xuất

Kohli và Jaworski (1990) cho rằng hành vi định hướng thị trường mang lại năng lực đổi mới vượt trội và thành công đổi mới nhiều hơn. Ngoài ra, (Slater & Mohr, 2006)nói rằng "yếu tố chính xác định khả năng phát triển và thương mại hóa thành công của công ty là cách công ty hiểu nhu cầu của khách hàng" (trang 30). Định hướng thị

54

trường tạo ra sự hiểu biết sâu sắc về khách hàng và kiến thức chi tiết về thị trường (Atuahene‐Gima và cộng sự, 2005). Điều này tăng cường khả năng quản lý để ảnh hưởng đến hiệu quả của các hoạt động đổi mới và giảm tỷ lệ thất bại đổi mới. Hunt và Morgan (1995) nói rằng kiến thức về khách hàng của doanh nghiệp có nguồn gốc từ việc có định hướng thị trường giúp các tổ chức phát triển các sản phẩm hiệu quả hơn, định vị tốt hơn và nhắm mục tiêu thị trường tốt hơn. Gần đây, các nghiên cứu cũng chứng minh định hướng thị trường ảnh hưởng đến đổi mới (!!! INVALID CITATION !!! ). Tìm thấy được cơ hội và thách thức từ kiến thức và thông tin thị trường (định hướng thị trường) nên các công ty thực hiện đổi mới và đổi mới thông minh hơn (Han và cộng sự, 1998). Những công ty có định hướng thị trường đối với hoạt động của mình sẽ khác với những công ty không có định hướng thị trường thể hiện qua khả năng nắm bắt được nhu cầu của các khách hàng tiềm ẩn, kết hợp cùng với các nguồn lực bổ sung qua năng lực đổi mới của mình để đáp ứng nhu cầu đó (Menguc & Auh, 2006). Beck và cộng sự (2011) đã khẳng định quy mô nhỏ như công ty gia đình có thể duy trì được dựa vào sử dụng định hướng thị trường và đổi mới. Định hướng thị trường đáp ứng có ảnh hưởng tích cực đến sự đổi mới thông qua các hiệu ứng kinh nghiệm (Atuahene‐Gima và cộng sự, 2005). Phản ứng từ định hướng thị trường tập trung vào kiến thức và kinh nghiệm hiện tại của công ty (W. Baker & Sinkula, 1999a) và gia tăng sự quen thuộc với một miền hiện tại làm giảm rủi ro và khả năng xảy ra lỗi trong quá trình đổi mới và nâng cao khả năng thành công đổi mới (Atuahene‐Gima và cộng sự, 2005). Powers và cộng sự (2020) chứng minh định hướng thị trường có ảnh hưởng hiệu suất của công ty từ nhận thức của các nhà quản lý, nhân viên bán hàng và khách hàng. Vì vậy, tác giả giả thuyết rằng:

H4. Định hướng thị trường của nhà sản xuất có tác động cùng chiều đến năng lực đổi mới của nhà sản xuất

Định hướng thị trường là phương tiện đáp ứng với các chương trình đổi mới marketing và chiến lược đổi mới để thay đổi nhu cầu của khách hàng. Do đó, định hướng thị trường có thể được xem là hành vi đổi mới liên tục (Kohli và Jaworski, 1990). Atuahene- Gima (1996) đã thảo luận về việc lựa chọn các dự án sản phẩm mới cần chú ý đến các yếu tố bên ngoài và nội bộ, và định hướng thị trường giúp hiểu biết tốt hơn về khả năng nội bộ của công ty tạo điều kiện để lựa chọn các dự án sản phẩm mới. Hunt và Morgan (1995) đã đề cập cách thức định hướng thị trường làm tăng kiến thức cho công ty về môi trường bên ngoài (Atuahene-Gima & Ko, 2001). Có đầy đủ kiến thức hay thông tin sẽ giúp công ty định hướng tốt cho đổi mới. Đổi mới thành công cần xác định định hướng chiến lược. Không có chiến lược đổi mới, khả năng đổi mới thì thành công trong đổi mới là không thể (Lawson & Samson, 2001). Gần đây, một vài nghiên cứu đã manh nha việc khẳng định kiến thức được cung cấp từ khách hàng của công ty giúp công ty đổi mới. Định hướng khách hàng là một trong những yếu tố cốt lõi và quan trọng ảnh hưởng đến khả năng đổi mới (Akman & Yilmaz, 2008). Ảnh hưởng của định hướng khách hàng về khả năng đổi mới là rất mạnh. Elg (2002) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhận ra định hướng thị trường ở mức độ nhiều đối tác và xem như hiện tượng liên công ty.cho rằng định hướng thị trường trong mạng lưới phân phối sản phẩm và dịch vụ.

Dựa trên RBT, lý thuyết các bên có liên quan và marketing B2B, việc giả định một cơ chế ảnh hưởng mở rộng sự thành công của công ty đầu mối (nhà sản xuất) được


55

đánh giá bởi đối tác bên ngoài bao gồm khách hàng doanh nghiệp và khách hàng tiêu dùng. Nhà sản xuất phục vụ những khách hàng này bằng cách cung cấp các giá trị cao hơn từ sản phẩm và dịch vụ. Thông tin và kiến thức càng đầy đủ và chính xác sẽ giúp cho nhà sản xuất tạo ra sản phẩm có giá trị cao hơn. Tác giả lập luận rằng định hướng thị trường của khách hàng doanh nghiệp càng đầy đủ giúp cung cấp, phổ biến và phản ứng thông tin cho sự đổi mới của nhà sản xuất càng cao, nhà sản xuất sẽ mở ra nhiều ý tưởng, đổi mới liên tục tập trung vào các khách hàng của nhà sản xuất. Tuy vậy, khách hàng cần đầu tư định hướng thị trường thật tốt để có được thông tin, chuyển đổi, và khai thác những ý tưởng mới của nhà sản xuất. Trong trường hợp, khách hàng doanh nghiệp VLXKN có định hướng thị trường tốt, nhà sản xuất VLXKN tiếp nhận thông tin đầy đủ để nâng cao thực hiện đổi mới liên tục giúp VLXKN ngày càng đáp ứng nhu cầu thi công của khách hàng. Từ đó, kết quả sẽ giúp phát triển thị trường VLXKN tốt hơn. Tác giả thiết lập giả thuyết:

H5. Định hướng thị trường của khách hàng doanh nghiệp có tác động cùng chiều đến năng lực đổi mới của nhà sản xuất

2.5.5 Tác động của năng lực đổi mới và phát triển thị trường của nhà sản xuất

Bằng chứng thực nghiệm ủng hộ quan điểm về đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, đổi mới marketing có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của công ty (Gunday và cộng sự, 2011; Kafetzopoulos & Psomas, 2015). Đổi mới là rất quan trọng để một công ty bán nhiều sản phẩm dịch vụ hơn, có nhiều khách hàng hơn và đạt được lợi nhuận cao hơn (Cheng và cộng sự, 2010), cải thiện vị trí công ty trên thị trường (Walker, 2004). Đổi mới sản phẩm liên quan đến tạo ra sản phẩm mới hoặc cải tiến sản phẩm hiện tại (OECD Oslo Manual, 2005). Đổi mới quy trình sử dụng một loại vật liệu sản xuất mới, loại máy móc /thiết bị mới (OECD Oslo Manual, 2005), cải tiến quy trình hiện có thông qua giảm chi phí và / hoặc tăng tính linh hoạt và hiệu suất của quy trình (Karabulut, 2015); hoạt động liên quan đào tạo đội/nhóm, cải thiện số giờ làm việc trong phát triển sản phẩm / dịch vụ mới hay cải tiến sản phẩm / dịch vụ (Jiménez-Jiménez & Sanz-Valle, 2011). Đổi mới marketing là việc thực hiện một phương pháp marketing mới liên quan đến những thay đổi trong thiết kế hoặc bao bì sản phẩm, địa điểm bán sản phẩm, truyền thông hoặc định giá sản phẩm (OECD Oslo Manual, 2005) nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, mở ra thị trường mới hoặc định vị mới cho sản phẩm / dịch vụ của công ty trên thị trường với mục đích tăng doanh số bán hàng của công ty. Kết hợp lý thuyết dựa vào nguồn lực và lý thuyết các bên có liên quan và marketing B2B, vận hành thị trường được các doanh nghiệp thực hiện định hướng thị trường, sử dụng các loại khả năng đổi mới trong thiết lập mối quan hệ phân phối sản phẩm (VLXKN).

Prajogo và Sohal (2004) đã tìm thấy mối liên hệ đáng kể giữa chất lượng sản phẩm và sự đổi mới sản phẩm. Nghiên cứu của Kafetzopoulos và Psomas (2015) khả năng đổi mới sản phẩm càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao. Các cải tiến sản phẩm được kỳ vọng sẽ cung cấp cho các công ty lợi thế cạnh tranh thông qua tính mới của công nghệ và cải thiện hiệu quả kinh doanh (Cheng và cộng sự, 2014). Đổi mới quy trình mang lại lợi thế cạnh tranh thông qua tăng năng suất thu qua cải thiện cách sản xuất sản phẩm (đã có từ trước) hiệu quả hơn (Evangelista & Vezzani, 2010). Đổi mới quy trình có tác động lớn hơn đến chi phí sản xuất nhưng ít ảnh hưởng hơn về tăng

trưởng doanh số bán hàng hoặc thị phần của một công ty hơn là đổi mới sản phẩm (Cheng và cộng sự, 2014). Năng lực đổi mới marketing làm tăng doanh số bán hàng bằng cách tăng tiêu thụ sản phẩm, nâng cao kết quả thị trường các công ty (Gunday và cộng sự, 2011). Xem xét các nghiên cứu trên, tác giả thiết lập giả thuyết sau:

H6. Năng lực đổi mới của nhà sản xuất tác động cùng chiều đến phát triển thị trường của nhà sản xuất

2.5.6 Mô hình nghiên cứu

Định hướng thị trường của KHDN

H2

+

Định hướng thị trường của NSX

H5

+

H1c+

H3

+

+ H4

H1a

Phát triển thị trường VLXKN

+

H1d +

Hỗ trợ của chính phủ

H6

+

+

H1b

Năng lực đổi mối của NSX

Trên cơ sở tổng kết lý thuyết và xây dựng các giả thuyết, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu dự kiến như sau:


Hình 2.8: Mô hình nghiên cứu đề xuất

Nguồn: Tác giả đề xuất

Tóm tắt chương 2

Chương 2 tác giả trình bày các lý thuyết nền liên quan đến luận án gồm lý thuyết các bên có liên quan, lý thuyết dựa vào nguồn lực, lý thuyết thể chế và marketing B2B. Đồng thời, tác giả tổng kết các khái niệm nghiên cứu phát triển thị trường, định hướng thị trường, năng lực đổi mới, hỗ trợ của chính phủ. Qua đó, tác giả thực hiện tổng quan tài liệu liên quan các mối quan hệ định hướng thị trường, năng lực đổi mới, hỗ trợ của chính phủ và phát triển thị trường; từ đó; tìm thấy một số khoảng trống từ tổng kết các lược khảo đó. Dựa vào đó, tác giả xây dựng 6 giả thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu cho luận án này.

Xem tất cả 294 trang.

Ngày đăng: 16/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí