được phát huy dẫn đến KTNT vẫn chưa bắt kịp được cơ chế thị trường đã dẫn đến sự trì trệ, kém phát triển của KTNT.
Năm là, vốn đầu tư cho phát triển KTNT còn thiếu do nhiều năm qua không được quan tâm đúng mức, nông dân có rất ít cơ hội được tiếp cận và sử dụng nguồn vốn tín dụng ưu đãi của nhà nước. Hơn nữa, vốn ngân sách cấp lại phân tán, dàn trải và có quá ít dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.
Sáu là, Nam Định là một trong những vùng “đất chật, người đông” dẫn đến dư thừa lao động nông thôn, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên khu vực nông nghiệp, nông thôn trong độ tuổi lao động còn rất thấp, còn tồn tại tình trạng vừa thừa vừa thiếu lao động (thừa lao động chân tay, không qua đào tạo và thiếu lao động có trình độ tay nghề, được đào tạo). Chính sách thu hút người tài, có trình độ tay nghề của Nam Định còn rất hạn chế, dẫn đến “chảy máu chất xám” đến các trung tâm kinh tế của đất nước như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…
2.3.3. Một số vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với quá trình phát triển kinh tế nông thôn trong giai đoạn tiếp theo
Thứ nhất, tốc độ tăng dân số tự nhiên ở nông thôn Nam Định còn tương đối cao, trong khi khả năng thu hút lao động vào các khu vực kinh tế đô thị và ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn không cao, dẫn đến quy mô dân số và lao động nông thôn vẫn còn quá lớn, áp lực nhân khẩu và lao động của quy mô dân số cao đã và đang đè nặng lên hiện tình kinh tế, xã hội và môi trường nông thôn. Tỷ lệ thất nghiệp còn ở mức cao, trong đó chủ yếu là lao động nông thôn. Tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong khu vực nông thôn dao động từ 73% đến 80%. Mức thu nhập bình quân cho một nhân khẩu chỉ mới bằng khoảng 2/3 thu nhập của dân thành thị [4]. Tỷ lệ hộ nghèo tuy đã giảm nhưng nguy cơ tái nghèo là rất cao. Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập thấp và nghèo đói, cùng với sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị,
đã ảnh hưởng lớn đến việc phát huy nguồn nhân lực của địa phương do hiện tượng chảy máu chất xám
Thứ hai, sản xuất nông nghiệp đã theo hướng sản xuất hàng hoá nhưng nhiều nông sản hàng hoá khó tiêu thụ do giá cả còn cao, tính cạnh tranh thấp làm cho lợi nhuận thu được chưa cao, thậm chí thua lỗ. Tương quan giữa giá hàng công nghiệp, dịch vụ so với nông sản hàng hoá cũng có sự chênh lệch khá lớn.
Thứ ba, nông nghiệp, nông thôn Nam Định đã đi vào sản xuất hàng hoá và vận hành theo cơ chế thị trường nhưng cơ sở hạ tầng nông thôn còn lạc hậu, thiếu đồng bộ, môi trường kinh doanh vẫn còn nhiều bất cập, chưa tạo đầy đủ diều kiện cho sự hoạt động của thị trường (cả thị trường hàng hoá, thị trường đất đai, thị trường lao động, thị trường vốn…). Điều này gây ra một trở ngại rất lớn, ắch tắc đến việc cung ứng các yếu tố đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra của KTNT
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Giá Trị Sản Xuất Nông – Lâm – Thuỷ Sản
- Tình Hình Phát Triển Kinh Tế Trang Trại Tại Thời Điểm Năm 2001
- Mô Hình Tổ Chức Quản Lý Sản Xuất, Kinh Doanh Ở Nông Thôn Còn Nhiều Bất Cập, Vướng Mắc.
- Phát Triển Nền Nông Nghiệp Hàng Hoá Theo Hướng Gắn Liền Đa
- Phát Triển Kết Cấu Hạ Tầng Kinh Tế Nông Thôn Để Đáp Ứng Ngày Càng Tốt Hơn Yêu Cầu Của Cnh, Hđh Nông Nghiệp, Nông Thôn.
- Phát triển kinh tế nông thôn ở Nam Định – Thực trạng và giải pháp - 14
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Thứ ba, tác động của thiên tai, dịch bệnh, nhất là dịch bệnh ở gia súc, gia cầm ngày càng tăng trong khi khả năng chống đỡ không cao, làm cho mức độ rủi ro của sản xuất kinh doanh ở nông thôn là rất lớn.
Thứ tư, sự biến động của thị trường thế giới về giá cả hàng hoá nông sản diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho xuất khẩu nông sản. Hơn nữa, những rào cản khi thâm nhập thị trường ngày càng nhiều, đặc biệt là rào cản về kỹ thuật – môi trường, chính sách bảo hộ nông nghiệp của các nước phát triển…
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN Ở NAM ĐỊNH
3.1. Một số quan điểm định hướng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn ở Nam Định thời gian tới.
3.1.1. Gắn phát triển kinh tế nông thôn với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Trong Nghị quyết Trung Ương 5 (khoá IX), Đảng ta đã xác định “CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất nước” [8]. Từ khi thực hiện phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đường lối đổi mới của Đảng, kinh tế – xã hội nói chung, KTNT nói riêng ở Nam Định đã có được những bước phát triển rất có ý nghĩa. Tuy nhiên sự phát triển của KTNT chưa nhanh, mạnh, chưa triệt để mà lý do cơ bản là chưa gắn với quá trình CNH, HĐH theo tinh thần Nghị quyết.
Qúa trình phát triển KTNT phải thực hiện ưu tiên phát triển LLSX, ứng dụng rộng rãi thành tựu KHCN; thúc đẩy chuyển dịch CCNKTNT theo hướng phát huy lợi thế của từng địa phương gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn, với chất lượng và hiệu quả cao. Muốn vậy, đòi hỏi các đơn vị sản xuất phải có đầy đủ điều kiện, kiến thức, thông tin nhanh, chính xác, kịp thời về thị trường; năng động, linh hoạt, tranh thủ thời cơ để đảm bảo đứng vững trong nền kinh tế thị trường. Trong điều kiện phát triển của cách mạng KHCN, đòi hỏi quá trình phát triển KTNT phải không ngừng áp dụng những thành tựu mới của KHCN làm nền tảng vững chắc cho sự phát triển ổn định, bền vững trên toàn vùng và phát triển hợp lý các loại công nghệ truyền thống trong nông nghiệp, nông thôn như: truyền thống canh tác, chăm sóc cây trồng,
vật nuôi và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, sử dụng những kỹ thuật khéo tay, …
Đồng thời thực hiện hiện đại hoá ở những khâu quan trọng, nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, gây ô nhiễm môi trường sinh thái. Tranh thủ đi tắt, đón đầu một số lĩnh vực then chốt, tiến nhanh lên trình độ hiện đại như: sử dụng công nghệ sinh học để tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt; công nghệ chế biến, nông, lâm, hải sản để tăng giá trị và chất lượng nông sản hàng hoá; sử dụng công nghệ hiện đại sau thu hoạch để tận thu, bảo quan và nâng cao chất lượng sản phẩm; sử dụng công nghệ thông tin để mở rộng, phát triển thị trường; sử dụng các loại vật liệu mới để xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông nghiệp, nông thôn…Đi đôi với phát triển LLSX, quá trình phát triển KTNT ở Nam Định phải từng bước hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu đó vừa khai thác, sử dụng có hiệu quả những tiềm năng của vùng, vừa tạo ra những điều kiện, khả năng cho sự ổn định và phát triển cơ cấu kinh tế ở những giai đoạn tiếp theo. Phải có cơ cấu kinh tế hợp lý giữa trồng trọt, chăn nuôi và thuỷ sản; giữa các nhóm cây trồng với các loại vật nuôi; giữa nông nghiệp với công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý phải bố trí lại các ngành kinh tế. Phát triển các ngành, nghề trong nông nghiệp, nông thôn một cách cân đối, hợp lý giữa các địa phương trong tỉnh, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, phân tán nhằm khai thác có hiệu quả những tiềm lực tại chỗ, đặc biệt là lực lượng lao động nông thôn
Quá trình xây dựng một CCNKTNT hợp lý, hiệu quả cũng là quá trình tổ chức lại sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá ngày càng sâu rộng giữa các địa phương, các ngành trong vùng từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
3.1.2. Phát triển kinh tế nông thôn trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế.
KTNT là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Do đó, cơ cấu thành phần kinh tế, vai trò, vị trí của từng thành phần kinh tế trong KTNT cũng giống như Đảng ta xác định cho nền kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, các thành phần kinh tế đó sẽ có những hình thức thể hiện cụ thể, thể hiện những đặc điểm riêng của KTNT. Thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nông thôn, tạo ra sức mạnh tổng hợp của thành phần kinh tế, giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có trong nông nghiệp, nông thôn; khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, đặc biệt là tạo việc làm cho đội ngũ người lao động dư thừa ở nông thôn, tăng nhanh tỷ suất hàng hoá, nông sản, nâng cao đời sống người dân.
Với tính cách là công cụ để phát triển mạnh mẽ KTNT trong quá trình CNH, HĐH, các thành phần kinh tế phải vận động theo hướng: kinh tế nhà nước ngày một tăng cường vai trò chủ đạo; kinh tế hợp tác dần phổ biến và chiếm ưu thế trong trồng trọt, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nông thôn; kinh tế trang trại được phát triển mạnh ở nông thôn, kinh tế tư bản nông nghiệp nông thôn phát triển dưới sự điều tiết của nhà nước có vị trí lớn trong sản xuất hàng hoá; sự phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hoá, các loại hình dịch vụ, nhất là doanh nghiệp ở nông thôn. Muốn vậy, các thành phần kinh tế trong nông thôn những năm trước mắt cần phải có những phương thức hoạt động mới phù hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế quốc dân và những đặc trưng của KTNT.
Để khơi dậy nguồn lực con người, trước hết phải chú trọng phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao trình độ dân trí, văn hoá, kinh tế – xã hội để làm giàu trí tuệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phải gắn với tổ chức quản lý và sử dụng nhân lực hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế nông thôn vùng theo hướng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.1.3. Phát triển kinh tế nông thôn phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội ở nông thôn.
Phát triển KTNT trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhằm mục đích làm cho nông nghiệp ngày càng phát triển, nông thôn ngày càng văn minh, giàu đẹp, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho cư dân nông thôn ngày càng được nâng lên. Quan điểm này chủ trương khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, thu hẹp khoảng cách giàu- nghèo, thực hiện xoá đói giảm nghèo ngay khi trình độ phát triển kinh tế còn thấp, thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bước tăng trưởng kinh tế.
Quá trình thực hiện phát triển KTNT gắn với việc xoá đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội bằng những chính sách, biện phát khả thi cụ thể. Trước hết, cần phải ưu tiên hỗ trợ cho các hộ đói kinh niên, các hộ thuộc diện chính sách về vốn; thực hiện đầu tư xây dựng cho các xã nghèo có đủ các công trình phục vụ phát triển sản xuất như: điện, đường giao thông, trường học, trạm xá… thực hiện xoá đói giảm nghèo phải gắn với tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường đồng bộ về pháp lý, cơ chế, chính sách, làm cho công tác này được thực hiện một cách thường xuyên có hiệu quả; thu hút sự tham gia của các ngành, các cấp và toàn bộ hệ thống nông nghiệp, nông thôn và toàn thể cộng đồng trong việc giúp đỡ các đối tượng nghèo đói.
Trong giai đoạn tới, tiếp tục chuyển đổi mạnh cơ cấu kinh tế, tạo nền móng cơ sở vật chất- kỹ thuật, công nghệ theo hướng hiện đại, đưa tốc độ phát triển của kinh tế nông thôn lên tương xứng với tốc độ phát triển của toàn vùng, xoá hoàn toàn hộ đói ngèo, xây dựng bộ mặt nông thôn mới.
3.1.4. Gắn tăng trưởng kinh tế nông thôn với thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo kinh tế nông thôn phát triển bền vững.
Thực hiện quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường đã chứng minh trong tiến trình phát triển của nó luôn mang tính hai mặt. Mặt trái của nó là do sự tác động của các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường đã làm phát sinh nhiêu tiêu cực như: tình trạng mất cân đối nền kinh tế, phân hoá giàu- nghèo, khủng hoảng, thất nghiệp… Đồng thời, vì chạy theo lợi nhuận,
đã vi phạm quy luật tự nhiên, gây ô nhiễm môi trường, làm mất cân bằng sinh thái.
Đảng và Nhà nước chủ trương khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường bằng cách tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Trong thời gian tới, quan điểm này cần được quán triệt và thể hiện trong từng bước đi của quá trình phát triển KTNT ở Nam Định. Mỗi bước phát triển KTNT ở Nam Định là mỗi bước tăng trưởng kinh tế, là mỗi bước tạo công ăn, việc làm, giải quyết thoả đáng mỗi quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động thông qua việc ký kết và thực hiện tốt hợp đồng lao động, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cư dân nông thôn. Đồng thời từng bước khắc phục và đi đến triệt để xoá bỏ hiện tượng ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái trong quá trình CNH, HĐH theo phương châm “xanh, sạch, đẹp”.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn ở Nam Định trong thời gian tới.
Từ những vấn đề lý luận phát triển kinh tế nông thôn trong quá trình CNH, HĐH và những thành tựu, hạn chế trong quá trình phát triển KTNT ở Nam Định trong những năm đổi mới vừa qua và trên cơ sở những quan điểm định hướng đối với sự phát triển KTNT , dưới góc độ kinh tế chính trị học, luận văn đưa ra nhóm những giải pháp chủ yếu sau đây nhằm thúc đẩy quá trình phát triển KTNT ở NĐ trong giai đoạn tiếp theo
3.2.1. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu ngành kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH.
Phân công lao động xã hội là một trong những điều kiện không thể thiếu cho sự ra đời, phát triển nền sản xuất hàng hoá. Đồng thời khi mở rộng phân công lao động xã hội, sẽ tạo cơ sở cho sự phát triển ngành nghề chuyên sâu trong lao động sản xuất, số lượng, chất lượng sản phẩm tăng và đa dạng về chủng loại; tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống người dân, nền kinh tế- xã hội phát triển.
KTNT nước ta nói chung và Nam Định nói riêng cho đến nay vẫn còn mang dấu ấn của nền kinh tế tự nhiên; cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, chưa theo sát với thị trường; hiện tượng thiếu việc làm còn phổ biến; sự phân công lao động xã hội theo hướng tích cực diễn ra rất chậm chạp, tính tự phát cao, tính kế hoạch, tính định hướng còn mờ nhạt. Lao động giản đơn là phổ biến, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, tập quán lâu đời của người dân trong vùng.
Để cho KTNT Nam Định phát triển mạnh mẽ, năng suất và hiệu quả kinh tế cao, đời sống nông dân lao động nâng lên, tăng sức cạnh tranh để KTNT chủ động hội nhập kinh tế quốc tế thì điều quan tâm trước hết là phát triển nông nghiệp hàng hoá đa dạng cùng với lương thực, đưa vụ đông thành một thế mạnh, hình thành các vùng chuyên canh rau, thịt, trái cây, hoa…phát triển các ngành công nghệ chế biến và cơ khí chế tạo …; hình thành các cụm, điểm công nghiệp, dịch vụ và các làng nghề ở nông thôn.
Về tổng thể cần có những giải pháp vĩ mô chủ yếu sau:
Một là, hoàn chỉnh quy hoạch sản xuất nông - lâm nghiệp, thuỷ sản và ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn theo hướng kinh tế hàng hoá gắn với thị trường. Việc quy hoạch phải dựa vào những nội dung sau:
- Phát huy được lợi thế của từng địa phương
- Căn cứ vào yêu cầu của thị trường và xuất khẩu để quy hoạch, khắc phục tình trạng tự phát, dẫn đến cung vượt cầu về nhiều loại nông sản
- Quy hoạch sản xuất gắn với quy hoạch chế biến, bảo quản, thu gom, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, quy hoạch sử dụng lao động nông thôn cũng như quy hoạch phát triển KCHT nông thôn
Hai là, đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp và KTNT theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn với chuyên môn hoá, tập trung hoá cao hơn. Để làm được điều này, cần phải giải quyết những vấn đề sau: