Đánh Giá Tình Hình Phát Triển Tdxk Của Nhà Nước Tại Ngân Hàng Phát Triển Việt Nam


d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 24 phiếu, chiếm tỷ lệ 13,5%.

Đánh giá hoạt động TDXK của VDB ở mức độ bình thường chiếm tỷ lệ lớn, còn lại nghiêng về đánh giá hoạt động chưa tốt.


Câu hỏi khảo sát

Đánh giá

a

b

c

d

Nhóm hàng trong danh mục hàng

71

52

40

15

hóa được vay vốn tín dụng xuất





khẩu tại VDB có khả năng cạnh

40,0%

29,2%

22,5%

8,4%

tranh cao





Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 261 trang tài liệu này.

Phát triển hoạt động tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam - 16

Khảo sát về khả năng cạnh tranh trong nhóm hàng TDXK cho kết quả như sau:

a. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản: 71 phiếu, tỷ lệ 40%.

b. Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ: 52 phiếu, tỷ lệ 29,2%.

c. Nhóm sản phẩm công nghiệp: 40 phiếu, tỷ lệ 22,5%.

d. Nhóm hàng máy tính nguyên chiếc, phụ kiện, linh kiện: 15 phiếu, tỷ lệ 8,4%

Như vậy, nhóm hàng NLTS là nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao nhất.



Câu hỏi khảo sát

Đánh giá

a

b

c

d

Điểm bất lợi trong hoạt động TDXK

tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam là

56

31,5%

37

21,0%

33

18,5%

30

16,9%


Đánh giá điểm bất lợi trong hoạt động TDXK tại VDB, cho kết quả như sau:

a. Nguồn vốn bị hạn chế: 56 phiếu, tỷ lệ 31,5%.

b. Quy trình, thủ tục cho vay quá chặt chẽ, cứng nhắc: 37 phiếu, tỷ lệ 21%.

c. Quy định về bảo đảm tín dụng gây khó khăn cho KH: 33 phiếu, tỷ lệ 18,5%.

d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 30 phiếu, tỷ lệ 16,9%.

Như vậy, nguồn vốn bị hạn chế là điểm bất lợi chính trong hoạt động TDXK của VDB.



Câu hỏi khảo sát

Đánh giá

a

b

c

d

Điểm mạnh nổi bật trong hoạt động tín

dụng xuất khẩu tại VDB

52

29,2%

56

31,5%

54

30,3 %

16

9,0 %

Khảo sát điểm mạnh nổi bật trong hoạt động TDXK tại VDB, cho kết quả như sau:

a. Tổ chức bộ máy quản lý TDXK có tính chuyên nghiệp cao: 52 phiếu, tỷ lệ 29,2%.

b. Mạng lưới giao dịch rộng khắp các vùng miền: 56 phiếu, tỷ lệ 31,5%.


c. Lãi suất hấp dẫn, có lợi cho khách hàng vay vốn: 54 phiếu, tỷ lê 30,3%.

d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 16 phiếu, tỷ lệ 9% .

Như vậy, mạng lưới giao dịch và lãi suất hấp dẫn là điểm mạnh nổi bật của VDB.



Câu hỏi khảo sát

Đánh giá

a

b

c

d

Thách thức lớn nhất để phát triển

hoạt động TDXK tại Việt Nam là:

44

24,7%

52

29,2%

67

37,6%

15

8,4%

Khảo sát điểm mạnh nổi bật trong hoạt động TDXK tại VDB, cho kết quả như sau:

a.Thiếu sự phối kết hợp trong cơ chế chính sách về TDXK: 44 phiếu, tỷ lệ 24,7%.

b. Hình thức tín dụng còn đơn điệu, thiếu tính liên kết: 52 phiếu, tỷ lệ 29,2% .

c. Năng lực tài chính của VDB chưa đủ mạnh để tạo lực đẩy tài chính cho xuất khẩu: 67 phiếu, tỷ lệ 37,6%.

d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 15 phiếu, tỷ lệ 8,4% .

Như vậy, năng lực tài chính chưa đủ mạnh là thách thức lớn nhất đối với VDB.



Câu hỏi khảo sát

Đánh giá

a

b

c

d

Cơ hội để đẩy mạnh phát triển hoạt

động tín dụng xuất khẩu của VDB là

52

29,2%

56

31,5%

54

30,3%

16

9,0%

Khảo sát về cơ hội để phát triển hoạt động TDXK tại VDB, cho kết quả như sau:

a. Chính sách nhất quán của Chính phủ về đẩy mạnh tín dụng xuất khẩu: 52 phiếu, tỷ lệ 29,2%

b. Ngân hàng Phát triển Việt Nam được tăng năng lực tài chính đủ mạnh: 56 phiếu, tỷ lệ 31,5%

c. Mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có lợi thế trên thị trường khu vực và thế giới: 54 phiếu,tỷ lệ 30,3%

d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 16 phiếu, tỷ lệ 9%

Như vậy, tăng năng lực tài chính cho VDB và lợi thế mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam là

cơ hội chính để đẩy mạnh phát triển TDXK.



Câu hỏi khảo sát

Đánh gi

á

a

b

c

d

Hoạt động TDXK tại Ngân hàng Phát

58

53

50

17

triển Việt Nam khác gì với TDXK tại





các NHTM

32,6%

29,8%

28,1%

9,6%

Khảo sát về sự khác nhau giữa TDXK tại VDB, và TDXK tại các NHTM, kết quả như sau:


a. Có sự khác nhau về mục tiêu hoạt động: 58 phiếu, tỷ lệ 32,6%.

b. Tín dụng xuất khẩu tại VDB áp dụng thống nhất, không có sự điều chỉnh linh hoạt, còn tín dụng xuất khẩu của các NHTM hoàn toàn theo cơ chế thị trường và được điều chỉnh rất linh hoạt: 53 phiếu, tỷ lệ 29,8%.

c. Tín dụng xuất khẩu tại VDB chỉ thực hiện theo mặt hàng nằm trong danh mục quy định, còn TDXK của NHTM thực hiện với bất kỳ mặt hàng nào nhà nước không cấm: 50 phiếu, tỷ lệ 28,1%.

d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 17 phiếu, tỷ lệ 9,6% .

Đánh giá sự khác biệt chủ yếu là mục tiêu hoạt động.



Câu hỏi khảo sát

Đánh gi

á

a

b

c

d

Nguyên nhân chính ảnh hưởng đến

51

59

52

16

hoạt động TDXK trong thời gian qua





tại VDB

28,7%

33,1%

29,2%

9,0%


Khảo sát nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng TDXK tại VDB là, với kết quả như sau

a. Cơ chế, chính sách về TDXK chưa đồng bộ, chưa thực sự khuyến khích khách hàng: 51 phiếu, tỷ lệ 28,7%.

b. Quy trình thẩm định và Quy định tỷ lệ tài sản đảm bảo không hợp lý, gây khó cho khách hàng: 59 phiếu, tỷ lệ 33,1%.

c. Quản lý tài chính, tuân thủ quy chế, quy định về TDXK của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu còn yếu kém và tiêu cực: 52 phiếu, tỷ lệ 29,2%.

d. Không có ý kiến hoặc có ý kiến khác: 16 phiếu, tỷ lệ 9%.

Như vậy, nguyên nhân chính thuộc về VDB và khách hàng.



Câu hỏi khảo sát

Đánh giá

a

b

c

d

Ý kiến chia sẻ bài học kinh nghiệm

về TDXK tại các quốc gia khác

57

32,0%

54

30,3%

55

30,1%

12

6,7%


Khảo sát về chia sẻ bài học kinh nghiệm về TDXK, cho kết quả như sau:.

a. Nên tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc: 57 phiếu, tỷ lệ 32%.

b. Nên tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc: 54 phiếu, tỷ lệ 30,3%.

c. Nên tham khảo kinh nghiệm Thái lan: 55 phiếu, tỷ lệ 30,1%.


d. Không có ý kiến hoặc ý kiến khác : 12 phiếu, tỷ lệ 6,7%.

Tổng hợp đánh giá chung: cần học hỏi kinh nghiệm của cả 3 quốc gia.

2.3.2. Đánh giá tình hình phát triển TDXK của Nhà nước tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam

Qua số liệu thực tế về hoạt động TDXK của Nhà nước tại VDB từ năm 2011 đến 2015, kết hợp với các thông tin tham khảo qua kết quả khảo sát về TDXK, có thể đánh giá tình hình hoạt động TDXK của Nhà nước tại VDB như sau:

2.3.2.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất: hoàn thành cơ bản chính sách TDXK của Nhà nước

• TDXK của Nhà nước tại VDB góp phần thực hiện các mục tiêu cơ bản như khuyến khích xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho đất nước; Tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; Góp phần cân bằng cán cân thương mại, giảm nhập siêu

VDB đã kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chính trị do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao. VDB phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các hiệp hội để hỗ trợ xuất khẩu theo đúng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn và quy hoạch phát triển từng ngành hàng, từng vùng kinh tế.

• TDXK của Nhà nước được thực hiện tại VDB theo danh mục ngành hàng theo quy định của Chính phủ. Đây là những ngành hàng, mặt hàng cần được hỗ trợ trong khuôn khổ pháp lý quy định của Việt Nam, nhằm tạo điều kiện để đẩy mạnh hoạt động sản xuất, gia công , chế biến và xuất khẩu những loại hàng hóa này, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vốn tín dụng xuất khẩu của VDB đã đóng góp tích cực đối với một số ngành, vùng và lĩnh vực trong danh mục thúc đẩy xuất khẩu mà Chính phủ giao nhiệm vụ cho VDB, đặc biệt là mặt hàng nông lâm thủy hải sản. Trên góc độ này, toàn hệ thống của VDB đã có nhiều cố gắng để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này.

• TDXK của Nhà nước tại VDB đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu của cả nước nói chung như: cà phê, thủy hải sản, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ, dệt may, nông sản, góp phần quảng bá thương hiệu sản phẩm Việt Nam trên thế giới. Qua đó tạo chỗ đứng ngày càng ổn định và vững chắc trên thị trường truyền thống và mở rộng khả năng gia nhập thị trường mới sau một thời gian hưởng ưu đãi của chính sách TDXK của Nhà nước.


• TDXK của Nhà nước góp phần thúc đẩy tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, cải thiện cán cân thương mại và tăng trưởng GDP cả nước trong vài năm trở lại. Khi hoạt động xuất khẩu phát triển sẽ gián tiếp tạo điều kiện hoàn thiện và phát triển các lĩnh vực liên quan đến hoạt động thương mại như: hải quan, tàu, cảng, dịch vụ vận chuyển.

• Thông qua hoạt động TDXK của Nhà nước tại VDB, đã làm cho chính sách TDXK của Nhà nước đi vào thực tế. Hàng năm ngân sách nhà nước đã hỗ trợ chênh lệch lãi suất cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng gần 500 tỷ đồng, tuy là con số không lớn, nhưng đã cho thấy chính sách đã đi vào thực tiễn cuộc hoạt động kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng. Càng ngày càng có nhiều DN đã tìm cách để tiếp cận nguồn vốn tín dụng xuất khẩu của Chính phủ để phát triển hoạt động kinh doanh của mình.

Thứ hai: chất lượng và hiệu quả công tác quản lý tín dụng được cải thiện

• Trong công tác quản lý cho vay, thu nợ, dư nợ TDXK

Công tác quản lý cho vay, thu nợ, quản lý dư nợ TDXK tại Sở Giao dịch và các Chi nhánh do các phòng TDXK thực hiện, dưới sự kiểm tra, giám sát, đôn đốc của Ban TDXK của Hội sở VDB. Cán bộ TDXK của phòng TDXK được giao nhiệm vụ theo dõi quản lý từng nhóm khách hàng và từng khách hàng cụ thể. Đối với khoản cho vay nhà xuất khẩu trước khi xuất hàng, cán bộ tín dụng theo sát diễn biến tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp vay vốn. Khi lô hàng được chính thức xuất khẩu, cán bộ tín dụng hướng dẫn, giúp đỡ cho nhà xuất khẩu các hồ sơ thủ tục để thanh toán hỗ trợ lãi suất theo quy định. Định kỳ hàng quý lập báo cáo các chỉ tiêu về doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ tại thời điểm, đồng thời tiến hành phân loại nợ theo quy định để đánh giá chất lượng TDXK từng khách hàng và toàn bộ khách hàng. Các phòng tín dụng xuất khẩu, định kỳ báo cáo tình hình cho Ban TDXK. Ban TDXK sẽ tổng hợp tình hình chung, đồng thời dựa trên các thông tin về tình hình kinh tế, tài chính, thị trường; tình hình quản lý tín dụng ở Sở giao dịch và các Chi nhánh để chỉ đạo kịp thời nhằm triển khai và thực hiện các biện pháp cụ thể để tăng cường công tác quản lý tín dụng, hạn chế và ngăn chặn rủi ro có thể xảy ra.


• Trong công tác quản lý chất lượng TDXK


Song song với việc mở rộng quy mô hoạt động TDXK, công tác quản lý chất lượng tín dụng được coi trọng hàng đầu. Quản lý chất lượng tín dụng là một trong những nhiệm vụ khó khăn và nặng nề trong hoạt động TDXK của VDB, bởi vì ngoài sự cố gắng chủ quan của cán bộ tín dụng, ngoài những quy định về tài sản bảo đảm v.v còn có những tác động khách quan của tình hình kinh tế nội địa nói riêng và kinh tế thế giới nói chung, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng TDXK của VDB. Ngoài ra, còn có những trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo, qua mặt cán bộ tín dụng. Bảng phân loại nhóm nợ tín dụng cho thấy nợ xấu của các năm 2011, 2012 đều có tỷ lệ rất cao, trên 8,5 %. Đây là một điều đáng báo động về chất lượng TDXK tại VDB. Năm 2013, tỷ lệ nợ xấu có giảm, nhưng vẫn còn cao với mức 8,0 %. Nếu so với tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận được là ≤ 3 %, thì tỷ lệ nợ xấu của VDB cao hơn rất nhiều, điều này cho thấy chất lượng TDXK đang có vấn đề, nhưng nếu so sánh với tình hình chung của toàn bộ nền kinh tế và toàn bộ hệ thống ngân hàng, tỷ lệ nợ xấu của VDB là không có gì khó hiểu. Đến năm 2014, sau khi cơ cấu lại nợ, tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 7,58 %, đến năm 2015 nợ xấu chỉ còn 7,02%. Đây là dấu hiệu tích cực, nhưng còn phải cố gắng nhiều mới đạt được tỷ lệ nợ xấu theo chỉ đạo của Chính phủ là không quá 3 % của toàn ngành trong năm 2015. Cũng cần phân tích thêm là trong số nợ xấu của VDB, nợ nhóm 5 tuy có, nhưng không nhiều, chủ yếu là nợ nhóm 4 và nhóm 3. Do đó, tuy có tỷ lệ nợ xấu cao, nhưng rủi ro tín dụng xảy ra với VDB đều có nguồn xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro.

Từng bước nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tín dụng

Công tác thẩm định, đánh giá khách hàng trên nhiều phương diện như thẩm định phương án SXKD, phương án sử dụng vốn và tài sản đảm bảo cũng như các yếu tố pháp lý liên quan đã được thực hiện tương đối tốt. Bộ phân chuyên môn cũng đã hướng dẫn khách hàng thực hiện khá đầy đủ thủ tục khi vay tạm ứng vốn xuất khẩu và hoàn chứng từ xuất khẩu để được xem xét giảm lãi suất theo quy định, được khách hàng hoan nghênh và tin tưởng. Tạo được sự tin cậy và tin tưởng nơi khách hàng được coi là thành công của VDB trong hoạt động TDXK trong thời gian qua. Nhờ những nỗ lực công việc chuyên môn của cán bộ phòng TDXK, sự theo dõi, chỉ đạo


sát sao, cụ thể thường xuyên của lãnh đạo phòng ban TDXK nên chất lượng TDXK

được cải thiện.

Thứ ba: mở rộng và phát triển quan hệ với khách hàng trên nhiều mặt

• Tăng cường phối hợp kết nối với các doanh nghiệp vay vốn

Thông qua hoạt động tín dụng xuất khẩu tại VDB, với bộ phận chuyên môn là các phòng TDXK đã có sự phối kết hợp với các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc xây dựng và thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn có hiệu quả . Qua hoạt động thực tế, trình độ quản lý tài chính của doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với VDB đã được nâng lên rõ rệt. Đây là một tín hiệu đáng mừng, vì các doanh nghiệp không những nâng cao nhận thức và trình độ quản lý tài chính kế toán, mà còn hiểu sâu hơn, cụ thể hơn chính sách tín dụng của Chính phủ nói riêng và chính sách khuyến khích xuất khẩu nói chung của Chính phủ để có những giải pháp thiết thực, đồng thời thông qua đó mà tuyên truyền phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp khác cùng biết để tiếp cận nguồn vốn TDXK của VDB trong phạm vi cả nước cũng như trong từng khu vực kinh tế.

• Số lượng hợp đồng và mức giải ngân sụt giảm liên tục

Hàng năm VDB đã ký hợp đồng TDXK với số lượng hàng trăm khách hàng, giải ngân hàng chục ngàn tỷ đồng. Tuy nhiên số hợp đồng đã ký và mức giải ngân trong 5 năm có xu hướng giảm liên tục. So với chỉ tiêu kế hoạch do Hội đồng quản trị đề ra thì doanh số cho vay, doanh số trả nợ và mức dư nợ về cơ bản đạt tỷ lệ khoảng gần 90 %. Mức tăng trưởng dư nợ tín dụng xuất khẩu qua 5 năm với mức bình quân năm là 6,03 %. Tuy tỷ lệ tăng trưởng không đều giữa các năm, nhưng với mức bình quân 6,03 % năm cho thấy trong điều kiện khó khăn của nền kinh tế, nhất là trong hoạt động xuất khẩu,VDB đã có nhiều cố gắng để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng này.

2.3.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân

►Những hạn chế

• Dư nợ và doanh số cho vay vốn tín dụng xuất khẩu của toàn hệ thống VDB còn quá khiêm tốn, tăng trưởng không ổn định qua các năm, tăng trưởng âm trong giai đoạn 2011 -2015. Nếu so sánh với tài sản trong HĐNV, dư nợ TDXK chỉ chiếm tỷ trọng bình quân chưa đến 6 % và có xu hướng giảm. Nếu so sánh với giá trị kim ngạch xuất


khẩu trong thời gian qua với những mặt hàng tương ứng trong cả nước, giá trị tín dụng của VDB còn là một con số quá nhỏ bé, chỉ chiếm tỷ trọng chưa đến 0,8 % tổng kim ngạch xuất khẩu. Điều này chưa tương xứng với vị trí của VDB trong việc thực hiện chính sách TDXK của Chính phủ; chưa tương xứng với tiềm năng của các ngành hàng xuất khẩu trong danh mục quy định của Chính phủ. Theo NCS, đây được coi là hạn chế lớn nhất trong hoạt động tín dụng xuất khẩu của VDB thời gian qua.

• Tín dụng xuất khẩu của Nhà nước tại VDB tuy đã có sự đa dạng và phong phú về hình thức tín dụng như cho vay đối với nhà xuất khẩu (DN trong nước); cho vay nhà nhập khẩu (DN nước ngoài); bảo lãnh vay vốn cho nhà xuất khẩu; bảo lãnh dự thầu các hợp đồng sản suất, khai thác, chế biến hàng xuất khẩu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhưng trên thực tế, toàn hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam chỉ mới thực hiện hình thức cho vay nhà xuất khẩu và bảo lãnh vay vốn cho nhà xuất khẩu, còn các hình thức khác chưa triển khai thực hiện. Có thể những hình thức tín dụng khác về xuất khẩu có mức độ rủi ro cao hơn, hoặc do lực lượng đội ngũ cán bộ chuyên quản còn quá ít nên chưa triển khai các hình thức tín dụng khác. Nhưng phải nhìn nhận vấn đề này như một trong những hạn chế của VDB trong hoạt động TDXK. Đây cũng là hạn chế khá lớn, nếu chúng ta có quan điểm và tầm nhìn xa, trông rộng hơn về chính sách TDXK của Việt Nam. Lý giải vấn đề này như thế nào? Vấn đề là, khi học hỏi kinh nghiệm của các nước trong việc thực hiện chính sách TDXK, chúng ta đều nhận thấy các nước đều đề ra và thực thi chính sách TDXK có sự nhất quán và phối hợp với nhau rất chặt chẽ. Các nước không những cung cấp tín dụng cho doanh nghiệp trong nước, mà còn cung cấp tín dụng cho người nhập khẩu ở nước ngoài tạo ra sự cộng hưởng để thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Tuy chính sách TDXK của Chính phủ Việt Nam có đặt vấn đề này, nhưng cho đến nay vẫn chưa triển khai loại hình cho nhà nhập khẩu nước ngoài vay vốn TDXK. Đây thực sự là một hạn chế trong thực hiện chính sách TDXK của Việt Nam. Cần xem xét để có thể triển khai hình thức cho vay nhà nhập khẩu ở nước ngoài trong thời gian tới.

• Các quy định, quy chế về hướng dẫn cho vay, quản lý nợ vay, thu hồi nợ trong TDXK tuy đã có đổi mới hơn, cụ thể hơn, nhưng vẫn còn thiếu sự linh hoạt, cứng nhắc, chưa bám sát thực tiễn. Một số công ty xuất khẩu đã không còn mặn mà với

Xem tất cả 261 trang.

Ngày đăng: 26/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí