lãnh; tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và áp dụng cơ chế xử lý rủi ro phù hợp với đặc thù hoạt động theo đó nghiên cứu để ban hành quy chế xử lý rủi ro theo hướng tăng cường phân cấp cho VDB được xử lý rủi ro theo quy định của pháp luật.
• Nghiên cứu để quy định và áp dụng các chỉ tiêu an toàn tài chính theo mô hình các tổ chức tín dụng, đảm bảo nguyên tắc theo thông lệ quốc tế.
► Đổi mới công tác quản trị ngân hàng
• Nghiên cứu xây dựng luật riêng áp dụng cho các ngân hàng chính sách trong đó có Ngân hàng Phát triển Việt Nam; trước mắt, Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện theo cả Luật Ngân sách nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng.
Đối với Luật Ngân sách nhà nước: Ngân hàng Phát triển Việt Nam được ngân sách nhà nước cấp vốn điều lệ, cấp bù chênh lệch lãi suất, tuân thủ quy định dự toán ngân sách nhà nước, chịu sự quản lý nhà nước về tài chính của Bộ tài chính.
Đối với Luật các tổ chức tín dụng: Ngân hàng Phát triển Việt Nam thực hiện kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ; xây dựng, ban hành quy trình nội bộ về các hoạt động nghiệp vụ; thực hiện chế độ báo cáo thống kê, báo cáo hoạt động và hoạt động thanh toán theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước tại VDB, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành trong việc quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
• Hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của VDB trong đó bao gồm cả các chức năng về thanh toán quốc tế, tham gia thị trường mở, thị trường liên ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật và tính chất đặc điểm hoạt động của VDB.
• Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát của các Bộ, ngành phù hợp với mô hình, hoạt động đặc thù của VDB theo đó: Bộ Tài chính thực hiện kiểm trả, giám sát, quản lý nhà nước về tài chính; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản lý giám sát về tín dụng và thanh toán; Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý giám sát về đầu tư phát triển; Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền lương và lao động.
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Tình Hình Phát Triển Tdxk Của Nhà Nước Tại Ngân Hàng Phát Triển Việt Nam
- Giả Thuyết Về Chính Sách Tín Dụng Xuất Khẩu Của Nhà
- Chấm Dứt Chính Sách Tín Dụng Xuất Khẩu Của Nhà Nước
- Sớm Triển Khai Phương Thức “Tín Dụng Xuất Khẩu 2 Chiều”
- Thông Hiểu Chính Sách Của Chính Phủ Về Tín Dụng Xuất Khẩu
- Mở Rộng Danh Mục Hàng Hoá Xuất Khẩu Được Vay Vốn Tín Dụng Xuất Khẩu
Xem toàn bộ 261 trang tài liệu này.
► Tái cơ cấu hoạt động ngân hàng tại VDB
Theo lộ trình tái cơ cấu thị trường tài chính, VDB sẽ được cơ cấu lại để tiếp tục là công cụ đắc lực của Chính phủ góp phần hỗ trợ đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước với trình độ chuyên nghiệp cao, hội nhập sâu rộng hơn với thị trường quốc tế. VDB hoạt động theo chuẩn mực của một ngân hàng hiện đại, an toàn, tăng trưởng bền vững trên cơ sở cân đối vững chắc nguồn và sử dụng vốn.VDB tập trung thực hiện 5 nhóm vấn đề cơ bản sau:
Một là: tốc độ tăng trưởng tín dụng giai đoạn 2015 - 2020 bình quân 10%/năm, theo đó quy mô tổng tài sản đến năm 2020 đạt khoảng trên 500.000 nghìn tỷ đồng so với số tổng tài sản khoảng 363.000 tỷ đồng vào cuối năm 2015.
Hai là:Ngân hàng Phát triển Việt Nam xác định cơ cấu vốn chủ sở hữu và vốn huy động của ngân hàng phù hợp tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm. Xây dựng lộ trình tăng vốn chủ sở hữu nhằm đạt tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng dư nợ cho vay tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu phù hợp từng giai đoạn.
Ba là: nâng cao chất lượng tín dụng, đặc biệt là các công tác thẩm định, giải ngân, quản lý thu hồi nợ. Đảm bảo các chỉ tiêu an toàn tài chính theo tiêu chuẩn của mô hình tổ chức tín dụng, đảm bảo nguyên tắc tài chính theo thông lệ quốc tế. Xây dựng và áp dụng cơ chế phân loại nợ phù hợp với tính chất hoạt động đặc thù của VDB. Xây dựng cơ chế lãi suất cho vay tín dụng đầu tư, TDXK theo nguyên tắc phi lợi nhuận song phải đảm bảo bù đủ chi phí về vốn, chi phí hoạt động và tăng dự phòng rủi ro.
Xây dựng cơ chế trích lập dự phòng rủi ro, các biện pháp xử lý rủi ro trong cho vay, bảo lãnh. Tích cực thu hồi và xử lý nợ xấu nhằm giảm tỷ lệ nợ xấu tổng thể dưới 7% vào năm 2015, từ 4-5% vào năm 2020 và dưới 3% vào giai đoạn 2020 - 2030.
Bốn là: tiêu chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu thực thi chính sách hỗ trợ phát triển theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, chương trình mục tiêu do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định. Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ tốt hơn chính sách tín dụng đầu tư, TDXK của Nhà nước, đặc biệt triển khai hiệu quả nghiệp cụ cho vay thỏa thuận nhằm nâng cao chất lượng hoạt động và giảm cấp bù của nhà nước tiến tới tự chủ về tài chính.
Năm là: hoàn thiện mô hình quản trị, tổ chức bộ máy phù hợp với tính chất đặc thù của ngân hàng chính sách với 100% vốn của Nhà nước. Chuẩn hóa và chuyên nghiệp đội ngũ cán bộ. Phát huy hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm tra, kiểm
soát và phân tích, cảnh báo rủi ro. Tăng cường kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý nhà nước. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của VDB.
Để thực hiện 3 nhóm vấn đề cơ bản nói trên, các giai đoạn tái cơ cấu gồm:
▪ Giai đoạn1 đến năm 2015(đã thực hiện)
Tái cơ cấu hoạt động ngân hàng trong giai đoạn này tại VDB nằm trong chương trình chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thực chất là giai đoạn kiểm tra, sắp xếp, chấn chỉnh để đánh giá đúng tình hình làm cơ sở cho việc thực hiện tái cơ cấu, gồm:
• Rà soát lại danh mục chương trình, dự án, ngành hàng thuộc đối tượng tín dụng đầu tư và TDXK của Nhà nước, xác định mức tăng trưởng tín dụng hợp lý trên cơ sở đó cơ cáu lại nguồn vốn vay;
• Xác định tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu so với tổng dư nợ cho vay tín dụng đầu tư, TDXK của Nhà nước tương ứng, đảm bảo đến năm 2015 đạt 10%; có lộ trình tăng vốn chủ sở hữu cho VDB;
• Đánh giá lại nợ xấu, ban hành quy định phân loại nợ phù hợp với đặc thù của ngân hàng, giải quyết dứt điểm nợ xấu bàn giao từ Quỹ Hỗ trợ phát triển và các tổ chức tiền thân, phấn đấu giảm nợ xấu xuống 7% tổng dư nợ cuối năm 2015.
• Củng cố lại tổ chức và hoạt động của VDB. Ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của ngân hàng, xác định đại diện chủ sở hữu, trên cơ sở đó quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Ban điều hành.
▪ Giai đoạn 2 từ năm 2016 đến năm 2020
Giai đoạn 2016 - 2020 là giai đoạn trung tâm, giai đoạn cao trào, đồng thời là giai đoạn huy động tổng lực để thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển. Tái cơ cấu hoạt động của VDB.trong giai đoạn này theo hướng sau:
• Xác định chương trình, danh mục tín dụng đầu tư và TDXK của Nhà nước áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020, trên cơ sở đó tập trung nguồn lực để thực hiện các chương trình, danh mục đã được xác định;
• Xác định tỷ lệ an toàn vốn năm 2020 đạt 10%, vốn chủ sở hữu đạt 30.000 tỷ đồng vào năm 2020, nợ xấu phấn đấu ở mức 4% - 5% vào năm 2020;
• Cải thiện cân đối thu chi, tài chính giảm cấp bù của ngân sách nhà nước, tiến tới
đảm bảo tự chủ tài chính trong hoạt động từ năm 2020;
• Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng theo tiêu chí an toàn tài chính như các ngân hàng
khác theo lộ trình tái cơ cấu hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam.
▪ Giai đoạn 3 từ sau năm 2020
Sau khi thực hiện tái cơ cấu hoạt động ngân hàng giai đoạn 2, VDB sẽ có vị trí xứng đáng trong việc thực thi chính sách tín dụng của nhà nước. Có tiềm lực tài chính đủ mạnh, có công nghệ ngân hàng hiện đại tiên tiến với quy mô và tầm hoạt động rộng lớn, đủ sức gánh vác trọng trách trong việc thực hiện chính sách TD của Chính phủ.
3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CỦA NHÀ NƯỚC TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
3.2.1. Giải pháp về phía Ngân hàng Phát triển Việt Nam
3.2.1.1. Sửa đổi, bổ sung quy chế quản lý vốn tín dụng xuất khẩu cho phù hợp Quy chế quản lý vốn TDXK của Nhà nước tại VDB được thực hiện theo quyết Quyết định số 39/2008/QĐ-HĐQL và đã được sửa đổi, bổ sung theo Quyết định số 46/2011/QĐ-HĐQL, nhưng cho đến nay quy chế này bộ lộ một số điểm không phù hợp với tình hình của nền kinh tế nói chung và tình hình sản xuất kinh doanh khai thác chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam nói riêng, dẫn đến hoạt động TDXK của Nhà nước tại VDB phát triển không ổn định, không đều, chưa thực sự là đòn bẩy để thúc đẩy xuất khẩu.Trước tình hình này HĐQT VDB đã ban hành quyết định số 03/2014/QĐ-HĐQL ngày 15/01/2014 về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy chế quản lý vốn tín dụng xuất khẩu đã được ban hành trước đây theo các quyết định nêu trên, với mục đích tăng cường quản lý vốn tín dụng xuất khẩu theo hướng nâng cao hiệu quả và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong giai đoạn mới. Cụ thể là:
• Mở rộng đối tượng cho vay tín dụng xuất khẩu: Tất cả các loại hình doanh nghiệp nuôi thủy sản xuất khẩu, nếu có nhu cầu vay vốn để mua thức ăn nuôi thủy sản sẽ được VDB đáp ứng theo đối tượng được hưởng chính sách TDXK của Nhà nước.
• Bổ sung điều kiện cho vay theo hướng nâng cao trách nhiệm của khách hàng như khách hàng phải thực hiện chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính và phải được cơ quan kiểm toán độc lập kiểm toán báo cáo tài chính. Khách hành phải mua bảo
hiểm tài sản tại một doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động hợp pháp đối với tài sản hình thành từ vốn vay thuộc đối tượng mua bảo hiểm bắt buộc.
• Về hình thức tín dụng xuất khẩu, Quy chế bổ sung đối với ngành hàng thủy sản trong đó quy định hợp đồng bán thủy sản cho doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu nếu bảo đảm đủ các điều kiện theo quy định, chỉ được áp dụng một trong những hình thức tín dụng xuất khẩu sau: cho nhà xuất khẩu Việt Nam vay; cho nhà nhập khẩu nước ngoài vay; cho vay mua thức ăn để nuôi thủy sản phục vụ xuất khẩu.
• Vể xử lý rủi ro trong TDXK: Quy chế mới có quy định rõ hơn về rủi ro và xử lý rủi ro nợ TDXK của Nhà nước, như rủi ro bất khả kháng gồm: thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ, rủi ro chính trị, chiến tranh trực tiếp gây thiệt hại tài sản, bị phá sản, giải thể và có sửa đổi, bổ sung một số biện pháp xử lý rủi ro gồm, bỏ biện pháp điều chỉnh thời hạn trả nợ và bổ sung biện pháp bán nợ đối với xử lý rủi ro TDXK của Nhà nước.
• Về đơn vị tiền tệ trong cho vay vốn tín dụng xuất khẩu: Đồng tiền cho vay vẫn là VND như quy định trước đây, tuy nhiên đồng tiền trả nợ có thể do khách hàng lựa chọn phù hợp với khả năng của khách hàng. Khách hàng trả bằng VND hoặc trả bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
• Về mức bảo đảm tiền vay: Quy định mới vẫn giử nguyên tỷ lệ bảo đảm tiền vay như trước đây. Ngoài ra, tài sản bảo đảm không nhất thiết là tài sản hình thành trong tương lai, mà có thể dùng tài sản khác để đảm bảo tiền vay với tỷ lệ không hạn chế.
• Về mức cho vay: Quy chế mới cho phép xác định mức cho vay cao hơn trước, lên
đến 90 % Giá trị hợp đồng xuất khẩu, hoặc nhu cầu vốn của doanh nghiệp.
3.2.1.2. Tăng cường huy động vốn trên toàn hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam Phát hành trái phiếu VDB được Chính phủ bảo lãnh sẽ là kênh huy động vốn chủ lực của VDB trong suốt quá trình hoạt động của VDB. Hiện nay, nguồn vốn huy động chủ yếu phục vụ hoạt động tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam là trái phiếu do VDB phát hành được Chính phủ bảo lãnh. Đây là một ưu thế lớn giúp VDB có thể thực hiện huy động vốn ở cả thị trường trong và ngoài nước.
Tại công văn số 435/CV- TTg 01/4/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt hạn mức bảo lãnh phát hành trái phiếu cho các ngân hàng chính sách năm 2015. Theo
đó, hạn mức bảo lãnh của Chính phủ phát hành trái phiếu cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam tối đa không quá 38.000 tỷ đồng. VDB sử dụng nguồn vốn được huy động theo hạn mức nói trên để cho vay theo nguyên tắc tập trung ưu tiên cho các chương trình quan trọng, nâng cao chất lượng tín dụng và sử dụng vốn có hiệu quả, tuân thủ đúng các quy định hiện hành của Nhà nước.
Tuy nhiên, để làm được điều này, trước hết cần phải chuyên nghiệp hoá hơn nữa công tác phát hành trái phiếu, cụ thể như sau :
• Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, Kho bạc Nhà nước và các tổ chức kinh doanh chứng khoán xác định các phương thức phát hành trái phiếu nhằm từng bước nâng quy mô phát hành, chuẩn hoá các loại trái phiếu phát hành và tăng tính thanh khoản cho giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
• Từng bước lành mạnh hóa về tài chính, đảm bảo công khai minh bạch trong hoạt động của VDB để nâng cao hệ số tín nhiệm của VDB trên thị trường tài chính trong và ngoài nước.
• Thường xuyên tổ chức đối thoại với các nhà đầu tư trái phiếu để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa nhà phát hành và đầu tư, trao đổi các thông tin cần thiết nhằm đẩy mạnh hiệu quả công tác phát hành trái phiếu. Xây dựng phương án phát hành trái phiếu công trình (chọn các dự án đầu tư công, các công trình có hiệu quả kinh tế cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh). Với cách phát hành này, VDB có thể huy động được lượng vốn tương đối lớn, với mức lãi suất huy động phù hợp, bảo đảm cho dự án có thể trả được nợ đúng hạn.
• Nghiên cứu và chuẩn bị điều kiện phát hành trái phiếu của VDB được Chính phủ bảo lãnh ra thị trường vốn quốc tế.
• Trong các Sở Giao dịch và Chi nhánh của VDB cũng sẽ được khuyến khích đẩy mạnh huy động vốn. Huy động vốn tại các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB trong thời gian qua, về cơ bản là chưa có gì vượt trội so với trước đây. Lý do của tình hình này là do Ngân hàng Phát triển Việt Nam ban hành cơ chế lãi suất với mức lãi suất huy động thấp hơn nhiều so với lãi suất các ngân hàng thương mại. Thêm vào đó, VDB lại quá chậm trong việc ban hành cơ chế mới về lãi suất cho kịp với lãi suất thị trường, tăng khả năng cạnh tranh. Vì vậy, nhiều khách hàng mặc dù là khách hàng lâu năm nhưng cũng đã rút vốn khỏi các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB để gửi
qua các ngân hàng thương mại vì được trả lãi khá cao. Mặc dù các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB đã cố gắng và nỗ lực trong việc duy trì các khoản huy động từ khách hàng cũ và tìm kiếm những khách hàng mới nhưng với cơ chế lãi suất huy động như hiện hành thì việc huy động vốn tại đơn vị gặp khó khăn và không thể gia tăng nguồn huy động là một thực tế và là điều tất yếu. Trong điều kiện như vậy, việc mở rông và đẩy mạnh công tác huy động vốn tại các Chi nhánh và Sở giao dịch của VDB tuy khó khăn, nhưng cũng phải cố gắng mới có được kết quả khả quan. Để làm được việc này Ban giám đốc các Chi nhánh và Sở giao dịch của VDB cần khẩn trương đưa ra những giải pháp tích cực nhằm thực hiện tốt công tác huy động vốn. Trong đó cần tập trung khai thác các nguồn vốn từ Bảo hiểm Xã hội trên địa bàn tỉnh, thành phố, đẩy mạnh huy động vốn từ các công ty bảo hiểm thông qua hợp đồng hợp tác bảo hiểm; khai thác nguồn vốn từ các đơn vị có mối quan hệ với Kho bạc Nhà nước để huy động từ các nguồn bảo hành công trình; thương lượng với khách hàng để tiếp tục đáo hạn các khoản huy động khi đến hạn; huy động từ các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB; Tranh thủ và vận động các doanh nghiệp có dư nợ vay vốn tín dụng tại các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB, khi hoàn trả hết nợ, số dư tiền gửi làm tài sản bảo đảm tiền vay sẽ để nguyên số dư này để trở thành nguồn vốn huy động. Bên cạnh đó, Ban Giám đốc các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB cần giao chỉ tiêu huy động vốn cho các phòng nghiệp vụ có quan hệ với khách hàng để đẩy mạnh công tác huy động vốn.
Hiện nay, theo quy định của Chính phủ, cơ chế huy động vốn của VDB đã được thoáng hơn, lãi suất được điều chỉnh theo hướng thị trường, đặc biệt,VDB còn được huy động từ nguồn vốn nhàn rỗi của khách hàng cá nhân - loại khách hàng tuy có nguồn vốn nhỏ nhưng số lượng khách hàng khá đông. Nếu VDB chủ động điều chỉnh lãi suất hấp dẫn hơn thì nguồn vốn huy động của các chi nhánh và Sở giao dịch của VDB sẽ gia tăng.
3.2.1.3. Kiện toàn bộ máy quản lý tín dụng theo hướng mở rộng phân quyền
Tổ chức bộ máy quản lý tín dụng trong ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng và là một trong những yêu cầu cơ bản trong quản trị ngân hàng của VDB. Tổ chức bộ máy quản lý tín dụng không có khuôn mẫu chung cho mọi ngân hàng, mà tùy theo đặc điểm,
trình độ quản lý mà mô hình tổ chức bộ máy quản lý tín dụng có sự khác nhau giữa các ngân hàng, nhưng nhìn chung cơ bản có sự thống nhất.
Bộ máy quản lý tín dụng hiện hành của VDB là bộ máy quản lý tập trung, mọi quyết định tín dụng đều tập trung quyến về hội sở. điều này có thể phù hợp với hoạt động tín dụng đầu tư và cho vay lại vốn ODA vì giá trị tín dụng rất lớn, nếu không quản lý tập trung có thể gây rủi ro lớn. Tuy nhiên đối với hoạt động tín dụng xuất khẩu nếu quản lý tín dụng tập trung sẽ không phù hợp vì tín dụng xuất khẩu vẫn là loại hình tín dụng kinh doanh thông thường, giá trị tín dụng không quá lớn. Do đó, nên chăng cần đổi mới cơ chế tổ chức bộ máy quản lý tín dụng đối với hoạt động tín dụng xuất khẩu theo hướng mở rộng phân cấp, phân quyền.. Mục đích kiện toàn bộ máy quản lý tín dụng là:
Nhằm xây dựng một hệ thống quản lý tín dụng hoạt động trực tuyến, có hiệu quả, đảm bảo phục vụ tốt nhất nhu cầu tín dụng của khách hàng tại VDB.
Nhằm ngăn ngừa rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng, góp phần ổn định
và nâng cao hiệu quả hoạt động của VDB.
Làm cho hoạt động tín dụng của VDB luôn tuân thủ luật pháp và các quy chế quy định hiện hành.
3.2.1.4. Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình tín dụng xuất khẩu
● Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng xuất khẩu
Thẩm định tín dụng là việc thẩm tra, so sánh, đánh giá một cách khách quan, khoa học, toàn diện các nội dung có liên quan để đánh giá tính hợp lý, tính khả thi và mức độ hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu của khách hàng, làm cơ sở để ra quyết định cấp tín dụng.
Trong suốt quá trình thực hiện xét cấp tín dụng cho khách hàng, công tác thẩm định tín dụng là khâu khởi đầu, đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả và chất lượng tín dụng. Do đó, thẩm định tín dụng là một trong những giải pháp nghiệp vụ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng xuất khẩu tại VDB.
Để đánh giá tính khả thi và tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh hàng khẩu của khách hàng, cán bộ thẩm định TDXK cần lưu ý mấy điểm sau đây:
Kiểm tra, đánh giá doanh thu dự kiến của khách hàng trên cơ sở xem xét giá bán hàng xuất khẩu có phù hợp với mức giá xuất khẩu bình quân hàng năm của doanh