Ngoài ra, CTCK còn giúp các nhà đầu tư tìm kiếm các cơ hội đầu tư có hiệu quả, tham gia thị trường một cách thuận lợi và góp phần hình thành nên một nền văn hóa đầu tư chứng khoán. Với việc tìm kiếm và giúp đỡ những nhà đầu tư không có kiến thức và thời gian, khuyến khích họ tham gia thị trường, CTCK đã góp phần thực hiện được một điều quan trọng nhất của thị trường đó là kích cầu chứng khoán.
1.2. Hoạt động của công ty chứng khoán
1.2.1. Nguyên tắc hoạt động của công ty chứng khoán
Hoạt động của CTCK có ảnh hưởng tới quyền lợi của các nhà đầu tư tham gia trên thị trường. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cũng như đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể tham gia trên thị trường, CTCK khi tiến hành hoạt động phải tuân thủ các nguyên tắc chung đối với CTCK. Những nguyên tắc này được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật qui định đối với CTCK. Nguyên tắc hoạt động của CTCK được chia thành hai nhóm nguyên tắc: nhóm nguyên tắc về tài chính và nhóm nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp.
*. Nguyên tắc tài chính
+ Xuất phát từ đặc điểm của CTCK là phải đáp ứng về vốn pháp định cho hoạt động kinh doanh nên trong quá trình kinh doanh CTCK phải đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết kinh doanh chứng khoán với khách hàng
+ Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán, báo cáo theo qui định của pháp luật.
+ Do CTCK có thể thực hiện cùng một lúc nhiều nghiệp vụ trên TTCK như nghiệp vụ môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tự doanh nên công ty phải tách biệt tiền và chứng khoán của khách hàng với tài sản của công ty. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm vật thế chấp để vay vốn hoặc dùng tiền của khách hàng để mua chứng khoán cho công ty trừ
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 1
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 2
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Công Ty Chứng Khoán
- Hoạt Động Cung Cấp Dịch Vụ Chứng Khoán
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 6
- Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 7
Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.
trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn bản. Nguyên tắc này được đưa ra nhằm tránh rủi ro cho khách hàng.
*. Nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
Vì CTCK hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm, có tác động sâu rộng tới tâm lý các nhà đầu tư. Do vậy, đối với nhân viên của CTCK, họ phải tuân thủ theo bộ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp do hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán ban hành. Bộ nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính trung thực, công bằng trong công việc của các nhân viên của CTCK. Nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm những điểm chính sau:
+ Giao dịch công bằng và trung thực vì lợi ích của khách hàng
+ Nhân viên của công ty phải là những người có kỹ năng, tận tuỵ và có tính thần trách nhiệm.
+ Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty
+ Có nghĩa vụ bảo mật các thông tin của khách hàng, không được tiết lộ các thông tin về tài khoản của khách hàng khi chưa được khách hàng đồng ý bằng văn bản trừ khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước.
+ Không tham gia các hoạt động kinh doanh ngoài phạm vi cấp giấy phép.
+ Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu sai về giá cả, giá trị và bản chất của chứng khoán hoặc các hoạt động gây thiệt hại cho khách hàng.
+ Với các hoạt động mà CTCK cung cấp cho khách hàng, phải có hợp đồng với khách hàng trước khi thực hiện dịch vụ cho họ.
1.2.2. Hoạt động của công ty chứng khoán
Hoạt động chính của CTCK bao gồm: hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn tài chính. Các hoạt động này có
thể được chia thành hai mảng hoạt động chính đó là hoạt động tự doanh và hoạt động cung cấp dịch vụ chứng khoán (bao gồm các hoạt động còn lại của CTCK).
1.2.2.1. Hoạt động tự doanh
Là một trong các hoạt động cơ bản của CTCK. Hoạt động này được xem như là hoạt động đầu tư của CTCK vì khi tiến hành tự doanh CTCK phải bỏ tiền ra mua, công ty sẽ có lãi khi giá chứng khoán tăng và ngược lại, sẽ lỗ khi giá chứng khoán giảm. Do đó, hoạt động tự doanh của CTCK cũng chứa đựng tiềm ẩn rủi ro về sự biến động giá chứng khoán trên thị trường. Như vậy, hoạt động tự doanh là việc CTCK mua bán chứng khoán bằng nguồn vốn của mình để hưởng lợi, đồng thời cũng chấp nhận rủi ro từ hoạt động đó.
Khi tiến hành hoạt động tự doanh, lợi nhuận mà CTCK có được có thể từ việc chênh lệch giữa giá mua và giá bán hoặc từ cổ tức, trái tức mà nhà phát hành trả.
Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên SGDCK hoặc trên thị trường OTC. Khi thực hiện hoạt động tự doanh trên thị trường OTC, các CTCK sẽ tiến hành mua bán chứng khoán trực tiếp với các đối tác thông qua thương lượng và qua một hệ thống máy tính nối mạng với nhau. Khi thực hiện hoạt động tự doanh trên SGDCK, các CTCK lúc này cũng như các nhà đầu tư khác trên thị trường, do đó lệnh mua bán chứng khoán của CTCK cũng được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như các lệnh mua bán của các nhà đầu tư. Lệnh của CTCK có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không xác định được trước.
Tùy theo mục đích, tính chất đầu tư mà hoạt động tự doanh của CTCK bao gồm các hoạt động cụ thể như tự doanh với mục đích hưởng lợi, nắm quyền kiểm soát, quản lý lý ngân quĩ hay tạo lập thị trường…
+ Tự doanh với mục đích hưởng lợi: là một trong những mục tiêu chính của CTCK khi tiến hành hoạt động tự doanh. CTCK thường chấp nhận rủi ro chớp lấy thời cơ để mua hoặc bán thật nhanh một loại chứng khoán nào đó và có lợi ngay trước mắt hoặc tiến hành kinh doanh chênh lệch giá giữa hai thị trường (nghiệp vụ kinh doanh acbít). Tùy vào khả năng chấp nhận rủi ro để có được lợi nhuận cũng như sự kỳ vọng về lợi nhuận thu được trong tương lai, CTCK có thể tiến hành tự doanh các loại chứng khoán có mức độ mạo hiểm cao hoặc những chứng khoán có độ an toàn cao.
+ Tự doanh với mục đích nắm quyền kiểm soát: Trong một số trường hợp, CTCK tiến hành tự doanh một loại chứng khoán nào đó với mục tiêu có được một số lượng cổ phiếu tối thiểu nhất định để có thể tham gia vào quá trình điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức phát hành (TCPH) đó. Khi theo đuổi mục tiêu này, CTCK có thể bỏ qua mục tiêu lợi nhuận trong ngắn hạn.
+ Tự doanh với mục đích quản lý ngân quĩ: Cũng giống như các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác, các CTCK cũng cần phải quản lý lượng tiền mặt tại công ty sao cho vừa đảm bảo khả năng chi trả đồng thời vừa đảm bảo khả năng sinh lời của đồng vốn. Do vậy, CTCK tiến hành đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn để đảm bảo 2 mục tiêu trong quản lý ngân quĩ của doanh nghiệp.
+ Tự doanh với mục đích đảm đương vai trò nhà tạo lập thị trường: một trong những mục tiêu quan trọng khi CTCK thực hiện hoạt động tự doanh đó là đảm đương vai trò nhà tạo lập thị trường. Khi đảm đương vai trò này, CTCK luôn phải nắm giữ một số lượng chứng khoán đủ lớn để sẵn sàng bán khi có nhu cầu đặt mua đồng thời phải dự trữ một lượng tiền nhất định để mua chứng khoán khi nhà đầu tư có nhu cầu bán [46]. Trong trường hợp nhà đầu tư có nhu cầu bán một loại chứng khoán mà CTCK
không tạo lập thị trường cho loại chứng khoán đó thì CTCK sẽ tìm kiếm một lệnh đối ứng phù hợp cho khách hàng. Như vậy để thực hiện được vai trò này, CTCK đồng thời phải vừa tiến hành hoạt động môi giới vừa phải tiến hành hoạt động tự doanh.
Xuất phát từ các mục đích trên, hoạt động tự doanh của CTCK có những đặc điểm sau:
+ Qui mô đầu tư lớn. CTCK phải có một lượng vốn (dưới dạng tiền mặt và chứng khoán) lớn để có thể thực hiện được các mục tiêu trong hoạt động tự doanh.
+ Đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, tính nhạy cảm cao trong công việc, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý.
CTCK có thể triển khai thực hiện nhiều hoạt động, trong đó có những hoạt động có thể sẽ dẫn tới xung đột với hoạt động tự doanh về lợi ích của khách hàng và của CTCK. Do vậy, khi tiến hành hoạt động tự doanh, CTCK phải đáp ứng các yêu cầu do luật pháp qui định, cụ thể:
Thứ nhất, phải có sự tách biệt giữa hoạt động tự doanh với hoạt động môi giới, giữa hoạt động tự doanh với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.
Khi CTCK vừa thực hiện hoạt động môi giới vừa thực hiện hoạt động tự doanh dễ phát sinh xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng. Vì vậy để tránh xung đột lợi ích hợp pháp và để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động các nước đều yêu cầu CTCK tách biệt hoạt động môi giới và tự doanh. Sự tách biệt này bao gồm: tách biệt về yếu tố con người có nghĩa là nhân viên của CTCK không được phép vừa làm trong bộ phận môi giới vừa làm trong bộ phận tự doanh; tách biệt về qui trình nghiệp vụ; tách biệt về tài sản và vốn của khách hàng và công ty tức là công ty không được phép dùng vốn và tài sản của khách hàng để kinh doanh cho công ty mà phải dùng chính nguồn vốn của công ty để tiến hành kinh doanh. Có nước
không cho phép CTCK vừa thực hiện hoạt động môi giới trên thị trường tập trung vừa thực hiện hoạt động tự doanh.
Bên cạnh đó, hoạt động tự doanh cũng còn phải có sự tách biệt với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, nếu không quyền lợi của các nhà đầu tư sẽ không được đảm bảo. Khi bộ phận tự doanh muốn mua chứng khoán nào đó thì bộ phận tư vấn sẽ khuyên khách hàng bán chứng khoán đó, và ngược lại, khi muốn bán họ lại tư vấn cho khách hàng mua chứng khoán đó.
Thứ hai, ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của CTCK. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và khả năng phân tích thị trường tốt hơn các khách hàng cá nhân nên CTCK có nhiều ưu thế hơn các nhà đầu tư cá nhân trong quyết định mua bán chứng khoán. Vì vậy, để đảm bảo sự công bằng giữa các nhà đầu tư cá nhân với các CTCK (nhà đầu tư chuyên nghiệp), CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khớp lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty. Điều đó có nghĩa trong trường hợp lệnh giao dịch của khách hàng và lệnh tự doanh của CTCK đến cùng một lúc thì lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của CTCK.
Thứ ba, bình ổn giá cả thị trường. Theo đó, khi thị trường có sự sụt giảm giá chứng khoán thì CTCK có trách nhiệm mua vào, khi giá chứng khoán tăng đột biến thì CTCK có trách nhiệm bán ra nhằm giữ giá chứng khoán ổn định. Khi thực hiện chức năng bình ổn giá chứng khoán trên thị trường, CTCK bỏ qua mục tiêu lợi nhuận. Để thực hiện được yêu cầu này, các nước thường qui định CTCK phải dành một tỷ lệ phần trăm nhất định các giao dịch của mình cho mục tiêu bình ổn thị trường.
Thứ tư, tạo thị trường cho chứng khoán mới phát hành. Khi chứng khoán mới được phát hành chưa có thị trường giao dịch, để tạo thị trường cho
các chứng khoán này, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán sẽ tạo tính thanh khoản cho chứng khoán đó trên thị trường thứ cấp. Trên thị trường OTC, CTCK liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh khác, qua đó, CTCK đã tạo ra và duy trì một thị trường liên tục cho chứng khoán mà họ kinh doanh.
Bên cạnh việc tạo thị trường cho những chứng khoán mới phát hành, CTCK cũng tạo thị trường cho những chứng khoán ít được giao dịch bằng việc mua bán các loại chứng khoán đó. Đặc biệt đối với những thị trường mới thành lập, các nhà đầu tư tham gia thị trường chủ yếu là các cá nhân nhỏ lẻ tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư chưa cao. Do đó, họ chỉ tập trung vào một số chứng khoán thịnh hành trên thị trường. Vì vậy, với hoạt động tự doanh, CTCK sẽ góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, định hướng cho toàn bộ thị trường.
Ngoài ra, CTCK cũng cần phải tuân thủ một số các qui định khác đối với hoạt động tự doanh như:
+ Không được thực hiện mua bán cùng một loại chứng khoán trong một ngày giao dịch
+ Không cho người khác sử dụng tài khoản tự doanh của công ty.
+ Không được tiến hành các giao dịch trá hình, tức là các giao dịch không làm dịch chuyển quyền sở hữu làm ảnh hưởng đến giá chứng khoán.
+ Không được lợi dụng các thông tin quyết định của khách hàng để mua bán trước.
+ Bị hạn chế đầu tư theo một tỷ lệ nhất định tuỳ theo loại chứng khoán đang lưu hành. Yêu cầu này nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh
chứng khoán, hạn chế rủi ro khi giá chứng khoán biến động mạnh, đặc biệt đối với những chứng khoán có độ rủi ro cao.
Để hoạt động tự doanh đem lại hiệu quả cao, đòi hỏi các CTCK phải có sự phân tích kỹ lưỡng trước khi ra quyết định đầu tư. Do vậy, hoạt động tự doanh ở CTCK nhìn chung sẽ được tiến hành theo một qui trình bài bản, khoa học và gồm các bước trong sơ đồ 1.1:
Xây dựng chiến lược đầu tư
ARSC
Thực hiện đầu tư
Phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư
Quản lý đầu tư và thu hồi vốn
Sơ đồ 1.1: Qui trình hoạt động tự doanh
+ Bước 1: Xây dựng chiến lược đầu tư:Công ty phải xác định được chiến lược trong hoạt động đầu tư của mình; phải xây dựng được một danh mục đầu tư hợp lý tuỳ theo từng giai đoạn phát triển của thị trường, của công ty, tuỳ theo quan điểm đầu tư của công ty (chấp nhận rủi ro cao hay an toàn…).