Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Công Ty Chứng Khoán


đang phát triển ngày nay đều phải tuân thủ theo các qui định mà luật pháp mỗi nước đã đề ra.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty chứng khoán


Khái niệm về CTCK có thể tiếp cận theo những cách khác nhau, theo giáo trình TTCK, trường Đại học KTQD, CTCK là "một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán". [42]

Theo giáo trình TTCK, trường Đại học kinh tế Tp. Hồ Chí Minh, CTCK là "một định chế tài chính trung gian chuyên kinh doanh chứng khoán là đơn vị có tư cách pháp nhân, có vốn riêng và hạch toán độc lập". [67]

Theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13/10/1998 của UBCKNN "CTCK là công ty cổ phần hoặc công ty TNHH thành lập hợp pháp tại Việt nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số các loại hình kinh doanh chứng khoán". [59]

Theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC ngày 24/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính thì CTCK "là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán". [6]

Như vậy, CTCK được hiểu là một tổ chức tài chính trung gian được thành lập theo pháp luật, thực hiện một và/hoặc một số hoạt động trên TTCK.

CTCK là một tổ chức tài chính trung gian hoạt động trên TTCK - một thị trường có mức độ nhạy cảm cao và có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế. Do vậy, CTCK thuộc loại hình kinh doanh có điều kiện, tức là để có thể tiến hành một hoặc một số các hoạt động trên TTCK, CTCK phải đáp ứng các điều kiện do luật pháp qui định cũng như những nguyên tắc ứng xử riêng có của ngành

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.


chứng khoán. Điều kiện này chính là những đặc điểm khác biệt giữa hoạt động của CTCK với hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác. Đặc điểm này bao gồm:

Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 3

+ Đặc điểm về vốn. Đối với công ty hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ thì yêu cầu của pháp luật về vốn cho việc thành lập công ty là không có. Tuy nhiên, đối với CTCK lại khác, CTCK muốn thành lập phải đáp ứng yêu cầu về mức vốn pháp định mà luật pháp qui định. Ở mỗi nước việc qui định mức vốn này có thể chung cho một CTCK khi tiến hành đăng ký thành lập (không kể CTCK đó thực hiện một, hai hay tất cả các hoạt động trên TTCK), ví dụ như Hàn quốc, mức vốn tối thiểu cho một CTCK là 50 tỷ won, hoặc có thể qui định riêng cho từng loại hình kinh doanh cụ thể, ví dụ như Việt nam, theo luật chứng khoán có hiệu lực từ 1/1/2007, mức vốn pháp định cho hoạt động môi giới là 25 tỷ VNĐ; tự doanh là 100 tỷ VNĐ... [46]

Đây là đặc điểm quan trọng nhất để quyết định CTCK được phép thực hiện hoạt động nào trên TTCK. Đặc điểm này nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.

+ Đặc điểm về nhân sự. Đây là lĩnh vực hoạt động có nghiệp vụ phức tạp, có độ rủi ro cao, mức độ ảnh hưởng tới đời sống kinh tế xã hội lớn nên đòi hỏi nhân viên của CTCK phải là người có trình độ tốt nghiệp đại học trở lên về chuyên ngành ngân hàng, tài chính, TTCK, có tư cách đạo đức nghề nghiệp và có chứng chỉ hành nghề do cơ quan có thẩm quyền cấp.

+ Đặc điểm về đội ngũ lãnh đạo. Yêu cầu về đội ngũ lãnh đạo trong bất kỳ lĩnh vực nào đều phải có kiến thức chuyên môn, có đạo đức trong kinh doanh, không vi phạm pháp luật và có trình độ quản lý. Yêu cầu về đội ngũ lãnh đạo ở các CTCK cũng như vậy. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực chứng


khoán, ngoài những yêu cầu trên, đội ngũ lãnh đạo ở các CTCK còn phải có chứng chỉ hành nghề và phải có giấy phép đại diện do cơ quan có thẩm quyền cấp. Và yêu cầu đối với đội ngũ lãnh đạo về trình độ học vấn và kinh nghiệm công tác phải cao hơn đội ngũ nhân viên.

+ Đặc điểm về cơ sở vật chất kỹ thuật. Khi tiến hành đăng ký hoạt động, CTCK phải đáp ứng yêu cầu về trụ sở phù hợp cho việc kinh doanh chứng khoán. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán là cần phải có sàn giao dịch, ở đó các nhà đầu tư tới để thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán cho mình, tiếp nhận thông tin thị trường. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của CTCK còn là hệ thống các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình truyền lệnh của khách hàng, thông báo kết quả giao dịch cũng như giúp khách hàng kiểm tra số dư tài khoản hoặc tìm kiếm thông tin… Ngoài ra, khi thị trường chưa được phi vật chất hoá chứng khoán thì CTCK cũng cần phải đảm bảo điều kiện về hệ thống kho két để đảm bảo lưu giữ an toàn chứng khoán cho các nhà đầu tư.

+ Đặc điểm về xung đột lợi ích giữa quyền lợi của khách hàng và CTCK. Trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh hay cung cấp dịch vụ thì lợi ích của khách hàng bao giờ cũng được gắn liền với lợi ích của chính doanh nghiệp và giữa khách hàng với doanh nghiệp không có mâu thuẫn về lợi ích. Tuy nhiên, đối với hoạt động của CTCK, bên cạnh việc cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho khách hàng thì giữa CTCK và khách hàng đôi khi xảy ra mâu thuẫn về lợi ích. Những hoạt động mà CTCK tiến hành có thể dẫn tới xung đột lợi ích là hoạt động môi giới, tự doanh và tư vấn đầu tư chứng khoán. Do vậy, đặc điểm này tạo ra sự khác biệt trong hoạt động của CTCK trên TTCK so với các loại hình kinh doanh trong các lĩnh vực khác.


1.1.3. Phân loại công ty chứng khoán.


1.1.3.1. Theo tính chất sở hữu


Để tiến hành kinh doanh, CTCK được thành lập dưới các hình thái doanh nghiệp khác nhau. Với mỗi loại hình thái của CTCK có những ưu, nhược điểm nhất định. Loại hình CTCK được thành lập phổ biến trên thế giới gồm: công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và công ty hợp danh.

a*. Công ty hợp danh:gồm hai hoặc ba người trở lên cùng góp vốn để tiến hành kinh doanh, trong đó phải có ít nhất hai thành viên hợp danh ngoài ra còn có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có trình độ chuyên môn, uy tín nghề nghiệp.

Với hình thái doanh nghiệp này, CTCK sẽ có được bộ máy tổ chức gọn nhẹ do số lượng thành viên ít, mức độ phân quyền có tính ổn định và công ty có độ tin cậy cao vì thành viên hợp danh là những người có trình độ, uy tín.

Tuy nhiên, công ty sẽ bị hạn chế về khả năng huy động vốn vì với hình thái này, công ty không được phép phát hành bất cứ chứng khoán nào và thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty.

Với đặc điểm pháp lý như trên, loại hình công ty hợp danh thường phù hợp với loại hình kinh doanh tư vấn đầu tư vì hoạt động này đòi hỏi nhân viên hành nghề phải có trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cao. Hơn nữa, do đặc thù của hoạt động tư vấn là tính trách nhiệm cao nên bên cạnh việc đảm bảo trách nhiệm về chất lượng tư vấn còn ràng buộc trách nhiệm vật chất một cách vô hạn.

b*. Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH):Là một doanh nghiệp trong đó gồm từ hai thành viên trở lên cùng tham gia góp vốn, thành viên có thể là


cá nhân hoặc tổ chức. Hình thái này có ưu điểm hơn hình thái hợp danh ở chỗ

(1) Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ của công ty trên cơ sở số vốn góp; (2) huy động vốn đơn giản và linh hoạt hơn; và (3) đội ngũ quản lý năng động hơn không bị bó hẹp trong một số đối tác như công ty hợp danh.

Bên cạnh đó, hình thái công ty TNHH cũng có một số hạn chế trong vấn đề chuyển nhượng vốn góp hay việc tăng giảm số lượng thành viên cũng như công cụ được phép sử dụng để tăng thêm vốn, cụ thể:

+ Việc chuyển nhượng vốn góp được thực hiện ưu tiên theo thứ tự ưu tiên cho các thành viên hiện hữu của công ty trước sau đó mới đến các cá nhân, tổ chức ngoài công ty.

+ Việc tăng hay giảm số lượng thành viên cũng bị hạn chế bởi các qui định pháp luật và sự chấp thuận của các thành viên hiện hữu trong công ty.

+ Công ty không được phép phát hành cổ phiếu để tăng thêm vốn

Với ưu điểm trên, loại hình công ty này được thành lập phổ biến hơn loại hình công ty hợp danh.

c*. Công ty cổ phần:Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần gọi là cổ đông của công ty. Cổ đông có thể là cá nhân hoặc tổ chức, tối thiểu là ba người và không hạn chế tối đa. Đây là loại hình doanh nghiệp có ưu điểm nổi trội hơn hẳn hai hình thái doanh nghiệp nêu trên, cụ thể: (1) là loại hình doanh nghiệp duy nhất được phép huy động vốn bằng cổ phiếu, do đó khả năng tăng thêm vốn cho quá trình kinh doanh dễ dàng hơn; (2) sự tồn tại của công ty là liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông; (3) rủi ro mà cổ đông gánh chịu được hạn chế ở mức nhất định trên cơ sở số vốn góp; (4) việc chuyển đổi quyền sở hữu được thực hiện dễ dàng thông qua việc mua bán cổ


phiếu theo pháp luật qui định; (5) hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin tốt hơn hai loại hình công ty trên.

Tuy nhiên, đối với hình thái doanh nghiệp này thì tính ổn định về mặt tổ chức của công ty không cao bằng công ty TNHH.

Với các loại hình công ty khác nhau sẽ phù hợp với loại hình kinh doanh mà CTCK tiến hành đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, với một CTCK thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ thì loại hình công ty cổ phần là thích hợp hơn cả.

1.1.3.2. Theo nghiệp vụ kinh doanh

Một CTCK tham gia trên thị trường có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một CTCK. Tuỳ theo loại hoạt động nghiệp vụ CTCK tiến hành thực hiện mà CTCK có thể được xếp vào loại CTCK tổng hợp hay CTCK chuyên môn hoá.

a*. Công ty chứng khoán tổng hợp

Là công ty thực hiện tất cả các hoạt động nghiệp vụ của một CTCK. Với hình thức CTCK tổng hợp, các hoạt động của công ty có thể hỗ trợ nhau cùng phát triển. Tuy nhiên, để có thể trở thành CTCK tổng hợp đòi hỏi các CTCK phải có tiềm lực về tài chính, đội ngũ nhân viên giỏi và hệ thống cơ sở vật chất đủ mạnh để tiến hành một cách tốt nhất các hoạt động nghiệp vụ.

b*. Công ty chứng khoán chuyên môn hóa


Là CTCK chỉ thực hiện một hoặc hai hoạt động nghiệp vụ. Với loại hình CTCK này thì các hoạt động mà CTCK tiến hành thực hiện phải là những hoạt động mà không dẫn tới xung đột về lợi ích giữa quyền lợi của khách hàng và quyền lợi của CTCK, ví dụ như hoạt động môi giới với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán hay hoạt động bảo lãnh phát hành với hoạt động tự doanh. CTCK chuyên môn hóa sẽ có bộ máy tổ chức gọn nhẹ hơn, qui mô


vốn cũng thấp hơn CTCK tổng hợp và công ty có thể tập trung mọi nguồn lực để phát triển hoạt động của mình.

1.1.4. Vai trò của công ty chứng khoán


Bằng các hoạt động trên TTCK, CTCK đã thể hiện vai trò quan trọng đối với thị trường nói chung và các chủ thể tham gia trên thị trường nói riêng.

Thứ nhất, CTCK tạo ra cơ chế huy động vốn cho doanh nghiệp và nền kinh tế. Nhờ có CTCK mà chứng khoán của các tổ chức phát hành đến được tay các nhà đầu tư bất kể họ ở đâu và được lưu thông trên thị trường và qua đó một lượng vốn lớn ngày càng được tập hợp từ những nguồn nhỏ lẻ để đưa vào đầu tư phát triển doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Các CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp, sẽ giúp cho các tổ chức phát hành tiết kiệm thời gian, công sức đảm bảo cho đợt phát hành thành công, qua đó làm tăng lượng cung chứng khoán trên thị trường.

Thứ hai, CTCK góp phần ổn định giá cả chứng khoán trên thị trường. CTCK với hoạt động tự doanh cùng với các yêu cầu qui định của pháp luật đã góp phần tạo nên sự ổn định giá cả chứng khoán cũng như tạo thị trường cho những chứng khoán mới phát hành.

Thứ ba, CTCK góp phần tạo ra sản phẩm và dịch vụ mới trên thị trường. Hoạt động môi giới là hoạt động mà ở đó nhân viên môi giới của công ty có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với bộ phận có chức năng nghiên cứu và phát triển sản phẩm của công ty để từ đó cho ra đời các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Do đó, hoạt động môi giới là một trong những kênh cung cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm


và dịch vụ theo nhu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó là tạo ra được sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ, đa dạng hoá được cơ cấu khách hàng và với phí dịch vụ thấp sẽ ngày càng thu hút được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư.

Thứ tư, CTCK giúp cơ quan quản lý thị trường quản lý, giám sát các hoạt động trên thị trường một cách có hiệu quả. Một trong những nghĩa vụ của CTCK là phải cung cấp thông tin về thị trường cho các nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Việc cung cấp thông tin thị trường cho cơ quan quản lý nhằm mục tiêu quản lý thị trường. CTCK vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường, do vậy thông tin về nhà phát hành hay thông tin liên quan tới giao dịch mua bán chứng khoán, thông tin về tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư… đều được CTCK báo cáo lên cơ quan quản lý. Nhờ vậy, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Và cũng qua các thông tin này, các cơ quan quản lý nắm bắt được thực trạng thị trường để từ đó có các chính sách, biện pháp thích hợp cho việc phát triển thị trường.

Thứ năm, CTCK góp phần giảm chi phí giao dịch, giảm rủi ro và nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư. Việc mua bán chứng khoán thông qua CTCK sẽ giúp các nhà đầu tư giảm được đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, nhờ đó tiết kiệm được chi phí giao dịch, xét cho từng giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thể thị trường và giúp nâng cao tính thanh khoản của chứng khoán. Đồng thời, giúp các nhà đầu tư giảm được rủi ro trong quá trình mua bán chứng khoán, các nhà đầu tư khi mua được đảm bảo sẽ nhận được chứng khoán và đó là những chứng khoán thật, và đối với nhà đầu tư bán sẽ được đảm bảo nhận được tiền sau khi giao chứng khoán.

Xem tất cả 221 trang.

Ngày đăng: 26/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí