1.1.4.3 Căn cứ vào thời hạn cho vay. Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng được chia thành ba loại:
- Cho vay tiêu dùng ngắn hạn: Các khoản CVTD có thời hạn không quá 12 tháng (1 năm).
- Cho vay tiêu dùng trung hạn: Các khoản CVTD có thời hạn từ trên 12 tháng (1 năm) đến 60 tháng (5 năm).
- Cho vay tiêu dùng dài hạn: Các khoản CVTD có thời hạn trên 60 tháng (5 năm).
Việc phân loại cho vay tiêu dùng theo thời hạn giúp NH đánh giá được cơ cấu cho vay theo thời hạn có phù hợp với tình hình huy động vốn theo thời hạn của ngân hàng hay không. Nếu CVTD trung dài hạn chiếm phần lớn, ảnh hưởng đến tổng dư nợ trung dài hạn, khiến cho tỷ lệ cho vay trung dài hạn sử dụng nguồn huy động ngắn hạn vượt quá mức cho phép thì NH cần phải điều chỉnh giảm cho vay trung dài hạn và tăng cho vay ngắn hạn để đảm bảo trong mức cho phép.
1.1.4.4 Căn cứ vào phương thức hoàn trả. Theo căn cứ này, cho vay tiêu dùng được chia thành hai loại:
- CVTD trả góp: Là hình thức CVTD mà người đi vay trả nợ cho ngân hàng (cả gốc lẫn lãi) thành nhiều lần, theo những kì hạn nhất định (thường là tháng hay quý) trong thời hạn cho vay. Số tiền thanh toán định kì gồm nợ gốc (là khoản tiền nhất định trả mỗi kì hạn, chúng thường bằng nhau) và nợ lãi (tính trên dư nợ thực tế).
Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với những món vay có giá trị lớn, thời hạn cho vay dài hay khi thu nhập định kì của người vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ vay. Ngân hàng sẽ yêu cầu người đi vay phải thanh toán trước một phần giá trị hàng hóa (tài sản) mua sắm theo một tỷ lệ tối thiểu, phần còn lại ngân hàng sẽ cho vay.
Khách hàng vay tiêu dùng khi sử dụng hình thức trả góp sẽ không bị áp lực trả nợ cao vào cuối kì vì ngay tại thời điểm kí hợp đồng thì KH đã biết trước phải thanh toán định kì bao nhiêu và thời gian trả hết nợ phù hợp với điều kiện bản thân.
Khi cho vay theo hình thức này thì ngân hàng phải quan tâm đến những vấn đề sau:
+ Loại tài sản được tài trợ: Thiện chí của người vay thường tốt hơn khi tài sản hình thành từ vốn vay đáp ứng nhu cầu của họ trong tương lai. Khi lựa chọn tài sản để cho vay, NH thường chú ý đến điều này vì NH thường chỉ muốn tài trợ cho nhu cầu mua sắm những tài sản có thời hạn sử dụng lâu dài, tính thanh khoản tốt, giá trị cao bởi vậy người tiêu dùng mới được hưởng những tiện ích do tài sản đem lại trong một khoảng thời gian dài.
+ Điều kiện thanh toán: Khi xác định các khoản liên quan đến việc thanh toán nợ của khách hàng, ngân hàng phải chú ý đến những nội dung sau:
Thời hạn cho vay không nên quá dài nhằm tránh cho việc theo thời gian tài sản tài trợ bị giảm giá trị và rùi ro tín dụng tăng lên.
Giá trị tài sản nợ không được thấp hơn số tiền tài trợ chưa được thu hồi.
Kỳ hạn trả nợ phải phù hợp với việc trả nợ của KH, thường là theo tháng hoặc theo quý.
Số tiền gốc và lãi thanh toán hàng kỳ phải phù hợp với khả năng tài chính của KH. Có thể tính toán bằng phương pháp lãi đơn hoặc phương pháp lãi gộp. Phương pháp lãi gộp là phương pháp thường được sử dụng trong cho vay tiêu dùng trả góp. Theo đó, lãi được tính bằng cách: lấy vốn gốc nhân với lãi suất và thời hạn vay, sau đó cộng với gốc ban đàu rồi chia cho số kỳ hạn phải thanh toán để xác định số tiền phải thanh toán trong mỗi kỳ hạn. Theo phương pháp lãi đơn thì vốn gốc người đi vay phải trả từng kỳ hạn trả nợ được tính đều nhau, bằng cách lấy vốn ban đầu chia cho số kỳ hạn thanh toán, còn lãi phải trả mỗi kỳ hạn được tính trên số tiền khách hàng thực sự còn thiếu.
+ Về trả nợ trước hạn: Khi khách hàng có nhu cầu trả nợ trước hạn: Nếu tiền trả góp theo phương pháp lãi đơn thì khách hàng chỉ phải thanh toán toàn bộ tiền gốc còn thiếu và lãi vay kỳ hiện tại cho ngân hàng. Còn nếu tiền lãi được tính bằng phương pháp lãi gộp thì lãi được tính giả định rằng người vay sẽ sử dụng tiền vay cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Khi khách hàng trả nợ trước hạn thì thời hạn khách hàng nợ thực tế khác thời hạn ghi nợ trong hợp đồng vậy thì số tiền lãi
phải trả cũng có sự thay đổi. Ngân hàng sẽ phải sử dụng phương pháp phân bổ lãi cho vay theo thời gian, dựa trên thời hạn vay thực tế để tính số tiền lãi thực tế cần phải thu.
- CVTD phi trả góp:
+ CVTD trả một lần: là các khoản vay ngắn hạn cảu cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu chi tiêu trong ngắn hạn, nhất thời, người đi vay chỉ thanh toán gốc một lần cho ngân hàng khi đến hạn. Giá trị các khoản vay này thường nhỏ và thời hạn cho vay không dài (thông thường là dưới 1 năm). Đa số các khoản vay theo hình thức này được dùng để chi trả cho việc cho vay du học, chuyến đi nghỉ dưỡng...
+ CVTD tuần hoàn: Là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Như vậy KH sẽ được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kì một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng được thỏa thuận trước. Lãi suất CVTD tuần hoàn thường cao nhất do những khoản vay này có chi phí để điều hành tín dụng tuần hoàn tương đối cao.
1.1.4.5 Căn cứ vào hình thức bảo đảm tiền vay
Căn cứ vào hình thức bảo đảm tiền vay thì CVTD được chia thành 2 loại:
- Cho vay tiêu dùng có đảm bảo bằng tài sản: là loại CVTD thường được áp dụng đối với những món vay lớn, không thể đảm bảo bằng tín chấp hay bằng lương và thường áp dụng cho đối tượng không phải là đối tượng hưởng lương.
Cho vay tiêu dùng không đảm bảo bằng tài sản: là các NH cho vay chỉ dựa vào uy tín của người đi vay, không dùng tài sản để đảm bảo cho khoản vay. Hình thức cho vay này được các NH thường áp dụng với cán bộ công nhân viên nhà nước, công ty, doanh nghiệp làm ăn hiệu quả.
1.1.5 Điều kiện cho vay tiêu dùng
Khách hàng chỉ có thể vay vốn của NH khi họ thỏa mãn tất cả các điều kiện vay vốn. Theo pháp luật Việt Nam, nội dung các điều kiện vay vốn bao gồm:
Thứ nhất, khách hàng phải có đủ tư cách pháp lý. Quan hệ tín dụng giữa NH và KH là quan hệ được pháp luật bảo vệ, phải được lập trên cơ sở quy định của pháp luật. Hơn thế trong quan hệ tín dụng sẽ phát sinh sự chuyển giao và giao dịch về tài sản, do đó cần có sự xác nhận của các bên tham gia theo đúng quy định của luật pháp. Như vậy khách hàng cần phải có đủ tư cách pháp lý để thực hiện các giao dịch.
Thứ hai, vốn vay phải được sử dụng hợp pháp. Tức là, không vi phạm pháp luật và mục đích sử dụng vốn vay phù hợp. Khi khách hàng sử dụng vốn bất hợp pháp thì các tài sản đó sẽ bị phong tỏa hoặc bị tịch thu, từ đó ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả gốc và lãi cho ngân hàng. Ngoài ra, khi vốn vay sử dụng bất hợp pháp thì tư cách pháp lý của khách hàng có thể bị mất đi, do đó ảnh hưởng tới quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng.
Thứ ba, khách hàng phải có năng lực tài chính lành mạnh đủ để đảm bảo hoàn trả tiền vay đúng hạn đã cam kết. Khách hàng có khả năng tài chính lành mạnh tức là khách hàng đó có khả năng chứng minh đảm bảo có cơ sở vững chắc về tài chính để đảm bảo cho cam kết tiền vay đúng hạn.
Thứ tư, khách hàng phải có phương án tiêu dùng khả thi. Vì bản chất của NHTM là tổ chức kinh doanh trong đó việc cho vay phải đảm bảo các nguyên tắc sinh lời cơ bản. Trong hoạt động CVTD của NHTM, nguồn thu từ thu nhập cá nhân như tiền lương, các khoản thu nhập tài chính và các khoản thu nhập khác của khách hàng được coi là nguồn “thứ nhất” đảm bảo an toàn vốn cũng như phát triển liên tục của khách hàng và ngân hàng. Do đó nhu cầu vay vốn tiêu dùng của khách hàng phải đảm bảo tính khả thi, tức là phù hợp với khả năng trả nợ từ nguồn thu nhập sau thuế ổn định hàng tháng của khách hàng.
Thứ năm, khách hàng phải thực hiện đảm bảo tiền vay theo quy định. NHTM quan tâm đến bảo đảm tiền vay vì: đảm bảo tiền vay là công cụ đảm bảo trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của khách hàng trong quan hệ vay vốn.
Đảm bảo tiền vay là công cụ bảo đảm trong việc thực hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của khách hàng trong quan hệ vay vốn. Đảm bảo tiền vay cũng cung cấp nguồn thanh toán “thứ hai” cho NHTM trong trường hợp khách hàng không trả được khoản vay.
1.1.6 Vai trò của cho vay tiêu dùng
1.1.6.1 Đối với nền kinh tế
Nếu CVTD được dùng để tài trợ cho các chi tiêu về hàng hóa, dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, từ đó tạo yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nếu không nhằm mục đích như vậy thì có thể làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước.
Trước hết, đối với doanh nghiệp cho vay tiêu dùng tăng, hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp được mở rộng, CVTD đem nhu cầu tương lai về hiện tại, quy mô sản xuất tăng nhanh, mức độ đổi mới và phong phú về chất lượng ngày càng lớn. Chính điều này đã làm cho toàn bộ quá trình sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng diễn ra nhanh chóng và hiệu quả, đó chính là nền tảng tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, từ nguồn tài chính mà cho vay tiêu dùng đem đến cho khách hàng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu dùng, và do đó gia tăng cầu trong nước trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội, hạn chế sự phụ thuộc vào hàng hóa dịch vụ nước ngoài, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững hơn.
Thứ ba, CVTD góp phần xóa bỏ vòng luẩn quẩn: thu nhập thấp - tiết kiệm ít - tiêu dùng ít - sản lượng thấp. Với những hoạt động cho vay tiêu dùng, người dân sẽ có nguồn tài chính một cách nhanh chóng để trang trải cho các nhu cầu về sinh hoạt, ăn uống, học tập, mua sắm đồ dùng gia đình, mua nhà,... góp phần cải thiện mức sống vật chất cũng như tinh thần của người dân.
Thứ tư, CVTD thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và từ đó lại làm tăng thu nhập, tạo khả năng tăng tiết kiệm, mở rộng cơ hội huy động vốn và phát triển các dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng.
1.1.6.2 Đối với ngân hàng thương mại
Ngoài hai nhược điểm chính là rủi ro và chi phí cao, hoạt động CVTD có những lợi ích:
Thứ nhất, giúp mở rộng quan hệ với khách hàng, từ đó làm tăng khả năng huy động các loại tiền gửi và các dịch vụ khác cho NH.
Thứ hai, tạo điều kiện đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, từ đó gia tăng lợi nhuận và phân tán rủi ro cho NH.
Thứ ba, là một trong những loại hình cho vay có lãi suất cao nhất, do đó có thể đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
Do sức ép cạnh tranh của các tổ chức tài chính phi NH và sự cải thiện trong thu nhập người dân, CVTD - loại hình trước đây được các NH xếp vào hình thức cho vay không an toàn với mức rủi ro cao nay đã trở thành một thị trường tiềm năng được các NH chú trọng mở rộng và phát triển.
1.1.6.3 Đối với Khách hàng
Cho vay tiêu dùng có ý nghĩa rất lớn đối với khách hàng:
Trước hết, cho vay tiêu dùng góp phần giải quyết được những nhu cầu thiết yếu, cấp bách về vốn cho các cá nhân và hộ gia đình.
Thứ hai, cho vay tiêu dùng giúp khách hàng được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền và đặc biệt là đối với các khoản chi tiêu có tính cấp bách.
Thứ ba, cho vay tiêu dùng góp phần cải thiện mức sống của người dân, đặc biệt đối với thế hệ trẻ và người thu nhập thấp, CVTD giúp họ có được một cuộc sống ổn định ngay từ khi còn trẻ, bằng việc mua trả góp những gì cần thiết, tạo cho họ động lực to lớn để làm việc, tiết kiệm, nuôi dưỡng con cái.
Tuy nhiên, nếu lạm dụng thì CVTD có thể làm cho người đi vay chi tiêu quá mức cho phép, làm giảm khả năng tiết kiệm và chi tiêu trong tương lai.
1.2 Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường phát triển có sự canh tranh gay gắt giữa các ngân hàng với nhau, để đứng vững được trên thị trường, các ngân hàng phải không ngừng phát triển, đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, và phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng là một trong những điều cần thực hiện.
Để hiểu được phát triển hoạt động CVTD của ngân hàng thương mại là gì,
trước hết cần phải làm rõ khái niệm phát triển. Theo từ điển Tiếng Việt, phát triển được hiểu là quá trình vận động, tiến triển theo hướng tăng lên, ví dụ như phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, phát triển xã hội,... Hay nói cách khác, phát triển là sự thay đổi về quy mô, đối tượng, phạm vi, phương thức theo hướng tích cực. Sự phát triển này không chỉ phát triển về số lượng mà còn phải gắn kết với cả chất lượng.
Phát triển cho vay tiêu dùng là một khái niệm khá trừu tượng, tuỳ theo mục đích nghiên cứu và tuỳ theo những quan điểm khác nhau mà có những khái niệm khác nhau về phát triển CVTD. Tiếp cận theo quy mô thì phát triển CVTD được thể hiện là doanh số cho vay cao, dư nợ cao, số lượng KH lớn và tăng lên trong từng thời kỳ. Theo cách tiếp cận về chất lượng thì phát triển cho vay tiêu dùng yêu cầu đáp ứng đầy đủ nhu cầu của KH, sản phẩm phải hài hòa, phù hợp, dư nợ quá hạn, nợ xấu thấp, lợi nhuận mang lại cao, KH hài lòng.
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, phát triển cho vay tiêu dùng tạm hiểu là phát triển cả về số lượng và chất lượng của các khoản cho vay tiêu dùng.
- Phát triển cho vay tiêu dùng về số lượng: Mở rộng thị trường cho vay, tăng số lượng khách hàng vay, tăng quy mô từng khoản vay, tăng doanh số cho vay,…
- Phát triển cho vay tiêu dùng về chất lượng: Các khoản cho vay được khách hàng sử dụng hiệu quả, đúng mục đích, thông qua đó các TCTD thu hồi được gốc và lãi, còn khách hàng có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thoả mãn nhu cầu.
Tóm lại, phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng được hiểu là sự gia tăng về quy mô và chất lượng hoạt động CVTD được thể hiện dưới hình thức là gia tăng dư nợ, gia tăng về thị phần, là sự hoàn thiện về quy trình cho vay, chính sách cho vay, hoạt động quản lý tín dụng của NH, đảm bảo không để phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu. (theo bài viết của TS Vũ Văn Thực tạp chí phát triển& hội nhập)
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
Sự phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng được các NHTM đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Quy mô (doanh số, dư nợ, hiệu quả thu nhập…) Chất lượng tín dụng (nợ xấu, nợ quá hạn)
- Chỉ tiêu đinh lượng: Số lượng KH, cơ cấu khách hàng
Mạng lưới chi nhánh
Phương thức, sản phẩm cho vay
- Chỉ tiêu định tính: Đối với khách hàng (mức độ hài lòng của KH bao
gồm: thái độ tư vấn, thời gian phục vụ, lãi suất, tiện ích...)
1.2.2.1 Chỉ tiêu định lượng
* Quy mô
- Chỉ tiêu phản ánh tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng
Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng cho khách hàng vay trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính theo năm), là chỉ tiêu phản ánh khái quát quy mô hoạt động của cho vay tiêu dùng của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định.
Tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay (DSCV) là phần trăm doanh số cho vay kỳ này tăng/giảm hơn so với kỳ trước, nó là số tương đối, phản ánh khả năng mở rộng cho vay của NHTM. Công thức tính tốc độ tăng doanh số cho vay như sau:
DSCV kỳ này – DSCV kỳ trước | |||
= | DSCV kỳ trước | x | 100% |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam PVcomBank - Chi nhánh Đông Đô - 1
- Phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam PVcomBank - Chi nhánh Đông Đô - 2
- Lý Luận Chung Về Phát Triển Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Tới Phát Triển Hoạt Động Cho Vay Tiêu Dùng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Quy Trình Cấp Tín Dụng Và Công Tác Thẩm Định Tín Dụng
- Tình Hình Hoạt Động Kinh Doanh Của Ngân Hàng Tmcp Đại Chúng Việt Nam
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Tốc độ tăng trưởng doanh số dùng để so sánh sự tăng trưởng doanh số cho vay tiêu dùng qua các năm để đánh giá khả năng cho vay, tìm kiếm khách hàng và đánh giá khả năng thực hiện kế hoạch cho vay tiêu dùng của ngân hàng.