Phương Pháp Thu Thập, Thống Kê Và Tổng Hợp Tài Liệu

5.1.4. Quan điểm lịch sử – viễn cảnh


Mọi sự vật, hiện tượng đều có sự vận động, biến đổi hay phát triển theo quá trình của nó. Quan điểm này được vận dụng trong quá trình phân tích các giai đoạn chủ yếu của quá trình hình thành, phát triển hệ thống du lịch, các phân hệ cũng như xu hướng phát triển của hệ thống lãnh thổ. Bình Thuận là vùng đất có bề dày lịch sử, có nền văn hóa phát triển từ lâu đời. Trải qua lịch sử phát triển hàng ngàn năm với bao thăng trầm, đến nay vùng đất này vẫn còn giữ được những đặc điểm riêng biệt, đặc sắc về tự nhiên, về văn hóa và con người. Những đặc điểm này đã được khai thác cho phát triển kinh tế nói chung, cho du lịch nói riêng. Nghiên cứu quá khứ để có được những đánh giá đúng đắn hiện tại, phân tích nguồn gốc phát sinh, phát triển mới có cơ sở để đưa ra các dự báo về xu hướng phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận mang tính bền vững và hiệu quả.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu‌


5.2.1. Phương pháp thu thập, thống kê và tổng hợp tài liệu


Để có được những thông tin phong phú, chính xác, các tài liệu được thu thập từ nhiều lĩnh vực, nhiều nguồn khác nhau như: tài liệu lưu trữ quốc gia và trung ương, tài liệu của các cơ quan cấp tỉnh, của ngành du lịch và các tài liệu có liên quan.

Các tài liệu luôn được bổ sung, cập nhật; được chọn lọc, thống kê và tổng hợp, liên kết các mặt, các bộ phận thông tin để tạo ra một hệ thống thông tin mới đầy đủ và sâu sắc là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện các nghiên cứu trong luận án.

Phương pháp thu thập, thống kê và tổng hợp tài liệu được thực hiện tốt là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện các phương pháp khác đạt hiệu quả cao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

5.2.2. Phương pháp phân tích hệ thống


Phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững - 3

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và tính xã hội hóa sâu sắc. Phân tích hệ thống nhằm thấy rõ vai trò, mức độ ảnh hưởng của các yếu tố, các thành phần trong hệ thống tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường đối với phát

triển du lịch cũng như mối liên hệ giữa phát triển du lịch của địa phương trong hệ thống lãnh thổ du lịch của vùng và cả nước.

5.2.3. Phương pháp điều tra thực địa và điều tra xã hội học


Điều tra thực địa là phương pháp truyền thống của địa lý học, được sử dụng rộng rãi trong địa lý du lịch nhằm tích lũy tài liệu thực tế về sự hình thành, phát triển và đặc điểm của tổ chức lãnh thổ du lịch. Các thông tin thu thập được qua điều tra xã hội học giúp các nhà nghiên cứu tổng hợp được các ý kiến, các quan điểm đa dạng từ du khách, cư dân, các nhà quản lý một cách khách quan mà quan sát của một người không thể có được. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, phương pháp này luôn được coi trọng nhằm có được cái nhìn thực tế về phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận và những đặc trưng của lãnh thổ nghiên cứu. Các hoạt động chính trong khi tiến hành phương pháp này bao gồm quan sát, mô tả, điều tra, ghi chép, tham gia các buổi thuyết trình, hội thảo.

5.2.4. Phương pháp bản đồ


Đây là phương pháp đặc thù của nghiên cứu địa lý nói chung và địa lý du lịch nói riêng. Phương pháp này được sử dụng từ khâu đầu tiên cho đến khâu cuối của quá trình tìm hiểu, khảo sát, nghiên cứu. Các mối liên hệ về thời gian, không gian, số lượng, chất lượng của các đối tượng địa lý du lịch được thể hiện trong luận án thật khó có thể diễn tả một cách ngắn gọn bằng lời nếu không có sự hỗ trợ của các bản đồ.

5.2.5. Phương pháp khai thác hệ thống thông tin địa lý (GIS)


Đây là một trong những phương pháp đặc thù của địa lý. Phương pháp này được sử dụng trong việc xử lý, lưu trữ các dữ liệu và thiết kế các bản đồ phục vụ nội dung đề tài nghiên cứu.

5.2.6. Phương pháp chuyên gia


Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luôn tranh thủ ý kiến của các chuyên gia đầu ngành về du lịch, các nhà quản lý du lịch địa phương và cộng đồng sở tại về những định hướng phát triển và các quyết định mang tính khả thi.

5.2.7. Phương pháp dự báo


Phương pháp dự báo là phương pháp quan trọng trong quá trình thực hiện đề tài. Phương pháp này được sử dụng trong quá trình phân tích để đề xuất các định hướng và dự báo các chỉ tiêu phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận.

6. Những đóng góp chủ yếu của luận án‌

- Xây dựng cơ sở lý luận về phát triển du lịch trên quan điểm phát triển bền vững trên cơ sở tổng quan có chọn lọc những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan. Đề xuất hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ bền vững của hoạt động du lịch.

- Đánh giá những nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững, chỉ ra được những thành tựu và những bất cập.

- Đề xuất các định hướng chủ yếu và giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững.

7. Cấu trúc của luận án‌

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chủ yếu của luận án được trình bày trong 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn về phát triển du lịch trên quan điểm phát triển bền vững

Chương 2: Các nhân tố ảnh hưởng và thực trạng phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH TRÊN QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG‌

1.1. Những vấn đề lí luận‌


1.1.1. Một số vấn đề lí luận về du lịch‌


Du lịch

Thủơ ban đầu, du lịch chỉ được hiểu đơn thuần là các chuyến đi xa khỏi nơi cư trú để thỏa mãn nhu cầu nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh.

Theo Trần Đức Thanh trong cuốn Nhập môn khoa học du lịch, thuật ngữ du lịch trong ngôn ngữ nhiều nước bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp với ý nghĩa là đi một vòng. Thuật ngữ này được Latinh hóa thành tornus và sau đó thành tourisme (tiếng Pháp), tourism (tiếng Anh). Theo Robert Lanquar, từ tourist lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Anh vào khoảng năm 1800. Trong tiếng Việt, thuật ngữ tourism được dịch thông qua tiếng Hán. Du có nghĩa là đi chơi, lịch có nghĩa là từng trải. Tuy nhiên, người Trung Quốc gọi tourism là du lãm với nghĩa là đi chơi để nâng cao nhận thức. Azar người Thụy Sĩ nhận thấy Du lịch là một trong những hình thức di chuyển tạm thời từ một vùng này sang một vùng khác, từ một nước này sang một nước khác nếu không gắn với sự thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc. Các nhà kinh tế du lịch thuộc trường Đại học Kinh tế Praha mà đại diện là Mariot coi tất cả các hoạt động, tổ chức, kỹ thuật và kinh tế phục vụ các cuộc hành trình và lưu trú của con người ngoài nơi cư trú với nhiều mục đích ngoài mục đích kiếm việc làm và thăm viếng người thân là Du lịch. Tại hội nghị Liên hiệp Quốc về du lịch họp tại Roma – Italia (21/8 – 5/9/1963), các chuyên gia đưa ra định nghĩa: du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ [40].

Ngày nay, người ta đã thống nhất rằng về cơ bản, tất cả các hoạt động di chuyển của con người ở trong hay ngoài nước trừ việc đi cư trú chính trị, tìm việc làm và xâm lược, đều mang ý nghĩa du lịch [60].

Luật Du lịch Việt Nam khẳng định “du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [31].

Du lịch có nhiều chức năng, có thể tựu chung thành ba chức năng chính:

- Chức năng kinh tế của du lịch thể hiện ở sự liên quan mật thiết với vai trò của con người như là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Hoạt động sản xuất là cơ sở tồn tại của xã hội. Việc nghỉ ngơi, du lịch một cách tích cực và được tổ chức hợp lý sẽ góp phần phục hồi sức khoẻ, khả năng lao động, đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động, tăng hiệu quả kinh tế. Sức khỏe và khả năng lao động trở thành nhân tố quan trọng thúc đẩy nền sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả của nó [60]. Du lịch phát triển còn ảnh hưởng đến cơ cấu ngành và cơ cấu lao động của các ngành kinh tế, là cơ sở quan trọng tạo đà cho nền kinh tế phát triển.

- Chức năng xã hội thể hiện ở vai trò của du lịch trong việc giữ gìn, hồi phục sức khoẻ và tăng cường sức sống của nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng định rằng nhờ có chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư trung bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh đường tiêu hoá giảm 20% (Crirosep, Dorin, 1981). Thông qua hoạt động du lịch, du khách có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc, từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu lao động, tình bạn… Điều đó quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong toàn xã hội [60].

- Chức năng sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hoá môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và hoạt động của con người. Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định đòi hỏi phải tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du

lịch. Lúc này đòi hỏi con người phải tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lí. Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt xã hội phải đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi trường khỏi tác động phá hoại của các dòng khách du lịch và việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. Như vậy, giữa du lịch và bảo vệ môi trường có mối liên quan gần gũi với nhau [60].

Tài nguyên du lịch

Du lịch là ngành có định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử cùng các thành phần của chúng được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp hay gián tiếp hoặc cho việc tạo ra các dịch vụ du lịch nhằm góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí lực cũng như khả năng lao động và sức khỏe của con người [44].

“Tài nguyên du lịch là những tổng thể tự nhiên, văn hóa – lịch sử và những thành phần của chúng, tạo điều kiện cho việc phục hồi và phát triển thể lực và tinh thần của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ, trong cấu trúc nhu cầu du lịch hiện tại và tương lai, trong khả năng kinh tế, kỹ thuật cho phép, chúng được dùng để trực tiếp và gián tiếp sản xuất ra những dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi” [33].

Theo Nguyễn Minh Tuệ và cộng sự, “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục, phát triển thể lực, trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp, cho việc sản xuất dịch vụ du lịch” [60].

Luật du lịch Việt Nam khẳng định: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. [31]

Sản phẩm du lịch

Sản phẩm du lịch là một tổng thể nhiều thành phần không đồng nhất cấu tạo thành, đó là tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở

hạ tầng dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ nhân viên du lịch. “Sản phẩm du lịch là kết quả của sự kết hợp những dịch vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tài nguyên du lịch nhằm cung cấp cho khách một khoảng thời gian thú vị, một sự trải nghiệm DL trọn vẹn và sự hài lòng” [31].

Sản phẩm du lịch bao gồm cả sản phẩm hữu hình và sản phẩm vô hình. Chất lượng sản phẩm du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố: sự hấp dẫn của điểm du lịch, các tiện nghi cơ sở vật chất ở nơi khách đến, khả năng tiếp cận, giá cả...

Theo Tiến sĩ Trần Văn Thông, “Sản phẩm du lịch là sự kết hợp hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở khai thác hợp lý tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động du lịch” [45].

Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Hàng hóa và dịch vụ du lịch.

Theo Luật Du lịch Việt Nam, “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch” [31].

Lãnh thổ du lịch

Điểm du lịch

Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị trong phân vùng du lịch. Về mặt lãnh thổ, điểm du lịch có quy mô nhỏ. Dù rất nhỏ, điểm du lịch cũng chiếm một diện tích nhất định trong không gian. Sự chênh lệch về diện tích giữa các điểm du lịch có thể tương đối lớn [60]. Điểm du lịch cũng có thể hiểu là một nơi, một vùng hay một đất nước có sức hấp dẫn đặc biệt đối với dân ngoài địa phương và có những thay đổi nhất định trong kinh tế do hoạt động du lịch gây nên.

Điểm du lịch là nơi tập trung một loại tài nguyên nào đó (tự nhiên, văn hóa - lịch sử hoặc kinh tế - xã hội) hay một loại công trình riêng biệt phục vụ du lịch hoặc kết hợp cả hai ở qui mô nhỏ [60].

Thời gian lưu trú của khách du lịch tại điểm du lịch tương đối ngắn (không quá 1

– 2 ngày) vì sự hạn chế của đối tượng du lịch, trừ một vài trường hợp ngoại lệ (thí dụ, điểm du lịch với chức năng chữa bệnh, nhà nghỉ của cơ quan…).

Theo Luật Du lịch Việt Nam, “điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” [31].

Khu du lịch

Khu DL là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút khách du lịch, lấy hoạt động du lịch làm chức năng; có diện tích cần thiết (vài trăm hoặc hàng ngàn héc ta) để xây dựng các công trình, cơ sở dịch vụ du lịch phù hợp với cảnh quan, môi trường của khu du lịch; có kết cấu hạ tầng, CSVCKT du lịch bảo đảm phục vụ khách du lịch phù hợp với đặc điểm của khu du lịch.

Theo Luật Du lịch Việt Nam, khu du lịch “là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường” [31].

Cụm du lịch

Theo Phạm Lê Thảo trong luận án “Tổ chức lãnh thổ du lịch Hòa Bình trên quan điểm phát triển bền vững”: cụm du lịch là không gian lãnh thổ tập trung nhiều loại tài nguyên với một nhóm các điểm du lịch đang khai thác hoặc dưới dạng tiềm năng trong đó hạt nhân của nó là một hoặc vài điểm du lịch có sức thu hút khách cao [41, tr.12].

Tuyến du lịch

“Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không” [31]

Trung tâm du lịch

Trung tâm DL là sự kết hợp lãnh thổ của các điểm DL cùng loại hay khác loại. Trên lãnh thổ của trung tâm DL tập trung nhiều điểm DL. Nói một cách khác. Mật độ điểm DL trên lãnh thổ này tương đối dày đặc. Nó có khả năng và sức thu hút khách DL rất lớn. Nguồn tài nguyên du lịch có thể không thật đa dạng (về loại hình) nhưng tương đối tập trung và được khai thác một cách cao độ. CSHT và CSVCKT tương đối phong phú đủ để đón, phục vụ và lưu khách trong một thời gian dài, có khả năng tạo vùng du lịch rất cao [60].

Về cơ bản, trung tâm du lịch là một hệ thống lãnh thổ du lịch đặc biệt, hạt nhân của vùng du lịch. Chính nó đã tạo dựng bộ khung để cho vùng du lịch hình thành và phát triển. Theo cách nói thông thường, đây là các “cực” để thu hút các lãnh thổ lân

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 02/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí