+ Mức độ đóng góp của ngành du lịch cho công tác bảo tồn và tôn tạo các nguồn tài nguyên du lịch.
+ Hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch
Tóm lại, trên quan điểm bền vững, phát triển du lịch phải đảm bảo thực hiện được ba nguyên tắc cơ bản: phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường và mười nguyên tắc cụ thể tương ứng (xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Nguyên tắc phát triển du lịch trên quan điểm phát triển bền vững
1. Phát triển kinh tế | 1. Phát triển du lịch phù hợp với quy hoạch tổng thể kinh tế – xã hội nói chung ở phạm vi quốc gia, vùng và địa phương. |
2. Phát triển du lịch đạt hiệu quả kinh tế cao. | |
3. Xúc tiến, quảng bá du lịch có trách nhiệm. | |
2. Phát triển xã hội | 4. Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia vào các HĐDL. |
5. Đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo hướng bền vững. | |
6. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về PTDLBV. | |
7. Phối hợp liên ngành có liên quan để cùng nhau giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển du lịch. | |
3. Bảo vệ môi trường | 8. Khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên một cách hợp lý. |
9. Phát triển du lịch đi đôi với hạn chế sử dụng quá mức tài nguyên và giảm thiểu chất thải. | |
10. PTDL gắn liền với việc bảo vệ tài nguyên và MT. |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch tỉnh Bình Thuận trên quan điểm phát triển bền vững - 2
- Phương Pháp Thu Thập, Thống Kê Và Tổng Hợp Tài Liệu
- Phát Triển Du Lịch Trên Quan Điểm Phát Triển Bền Vững
- Liên Kết Phát Triển Du Lịch Tp. Hcm - Lâm Đồng - Bình Thuận
- Một Số Chỉ Tiêu Phấn Đấu Của Du Lịch Việt Nam Đến Năm 2010
- Thang Điểm Đánh Giá Tổng Hợp Phát Triển Du Lịch
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
1.2. Thực tiễn phát triển du lịch ở Việt Nam
1.2.1. Phát triển du lịch ở Việt nam
Những thế mạnh thúc đẩy phát triển du lịch bền vững
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên du lịch phong phú và khá hấp dẫn, chế độ chính trị ổn định, an ninh đảm bảo tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển.
Hoạt động phát triển du lịch ở nước ta đang diễn ra trong một bối cảnh hết sức thuận lợi khi Đảng và Nhà nước đã đánh giá và xác định rõ vị trí quan trọng của du lịch trong thời kỳ đổi mới và trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ cho phép có được những chính sách ưu tiên trong khai thác tài nguyên và đầu tư phát triển du lịch trên phạm vi cả nước và ở các vùng du lịch. Nhiều văn bản pháp luật liên quan đến du lịch đã được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung, tạo hành lang pháp lí thuận lợi cho du lịch phát triển.
Du lịch thế giới đang phát triển nhanh với xu thế chuyển dần sang Đông Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Việt Nam là điểm du lịch mới trên bản đồ du lịch thế giới có sức hấp dẫn lớn đối với khách quốc tế.
Du lịch Việt Nam đã vươn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch quốc tế; thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch nhiều mặt với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và thế giới.
Lượng khách du lịch quốc tế tới Việt Nam có sự tăng trưởng khá ổn định. Năm 1995 cả nước chỉ đón được 1,35 triệu lượt khách quốc tế thì đến năm 2010 đã lên tới trên 5 triệu lượt (xem biểu đồ 1.1).
Nghìn lượt
30000
Tỷ đồng
28000
100.000
25000
25000
96000
20500
80.000
20000
19200
70000
17500
64000
16000
60.000
15000
14500
56000
13000 13500
51000
10600
11200 11700
40.000
10000
9600
8500
30000
26000
6500
5500
23000 22000
20500
5094
5000
14000 15600 17400
4229 4254
20.000
3772
8730
1358
9500 10060
2330
2628
2429
2927
3478 3583
1600
1716
1520
1781
2140
0
0
Năm
Khách quốc tế
Khách nội địa
Thu nhập du lịch
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Biểu đồ 1.1: Khách và thu nhập du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010
Nguồn: Viện NCPT Du lịch
Bảng 1.2: Tăng trưởng trung bình khách du lịch Việt Nam
1995 – 2000 | 2001 – 2005 | 2006 – 2010 | ||
Tăng trưởng khách du lịch (%/năm) | Khách du lịch | 20,6 | 7,9 | 11,2 |
Khách quốc tế | 14,1 | 10,7 | 9,1 | |
Khách nội địa | 22,5 | 7,4 | 12,5 |
Nguồn: Tổng cục Du lịch, Viện NCVPTDL
Những cải cách về thời gian lao động và chế độ tiền lương, cùng với chất lượng cuộc sống của người dân Việt Nam ngày càng được cải thiện, thu nhập ngày càng cao nên lượng người dân đi du lịch tăng nhanh. Khách du lịch nội địa tăng nhanh, từ 5,5 triệu năm 1995 lên 28 triệu lượt khách năm 2010.
Việc khuyến khích được người dân trong nước đi du lịch đã tạo điều kiện phân phối lại thu nhập giữa các thành phần lao động trong xã hội, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, hỗ trợ tích cực cho các chương trình cứu trợ của Chính phủ như các chương trình xoá đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức cho cộng đồng... góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công mục tiêu đặt ra của phát triển bền vững cả dưới góc độ về kinh tế và góc độ xã hội.
Trong một thời gian dài (1995 – 2010), Việt Nam đạt mức tăng trưởng khách du lịch khá cao: 20,6%/năm trong giai đoạn 1995 – 2000, 7,9%/năm trong giai đoạn 2001 – 2005 và 11,2%/năm trong giai đoạn 2006 – 2010.
Cùng với tăng trưởng khách du lịch, thu nhập du lịch Việt Nam tăng nhanh, trung bình giai đoạn 1995 – 2000 tăng 14,3%, giai đoạn 2001– 2005 tăng 10,7% và giai
đoạn 2006 – 2010 tăng 28,1%.
Năm 2010, thu nhập du lịch Việt Nam đạt trên 96.000 tỷ đồng và tạo ra trên 1,4 triệu việc làm trong đó có 480 ngàn lao động trực tiếp, đóng góp 5,8% GDP.
Bảng 1.3: Tăng trưởng trung bình thu nhập du lịch Việt Nam
Tăng trưởng thu nhập du lịch (%/năm) | |
1995 – 2000 | 14,3 |
2001– 2005 | 10,7 |
2006 – 2010 | 28,1 |
Nguồn: Tổng cục Du lịch, Viện NCVPTDL.
Những khó khăn thách thức phát triển du lịch bền vững
Bên cạnh những thành công lớn, du lịch Việt Nam cũng đang đối mặt với nhiều thách thức, phát triển nhưng còn ẩn chứa những yếu tố thiếu bền vững.
Du lịch Việt Nam đang ở giai đoạn đầu phát triển, xuất phát điểm thấp. Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu đồng bộ. Kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động ngành còn non yếu, một số chính sách chưa thực sự thuận lợi cho khách du lịch. Sản phẩm dịch vụ du lịch chưa phong phú, đa dạng, chưa kéo dài được thời gian nghỉ ngơi của khách, chưa tạo cơ hội để tăng chi tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam. Xét về giá trị tuyệt đối, quy mô ngành du lịch Việt Nam còn nhỏ. Tốc độ phát triển du lịch tăng nhanh nhưng số lượng tuyệt đối còn thấp.
Du lịch là ngành kinh tế có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao, nhưng sự chỉ đạo phối hợp liên ngành còn chưa đồng bộ, chặt chẽ, chưa tạo thành một dây chuyền liên hoàn hỗ trợ cho hoạt động du lịch, chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra
cho ngành. Sự liên kết, hợp tác giữa các Bộ ngành, địa phương, lãnh thổ tuy gần đây có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn yếu hoặc thiếu đặc biệt là việc quản lý các nguồn lực tự nhiên. Cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành (tài chính, ngân hàng, hàng không, biên phòng, hải quan, điện lực và viễn thông…) trong hỗ trợ phát triển du lịch. Đây là những hạn chế, cản trở phát triển du lịch theo hướng bền vững.
Bên cạnh đó, các tệ nạn xã hội như mại dâm, nghiện hút, cờ bạc, HIV/AIDS gia tăng, du lịch không phải là nguyên nhân duy nhất nhưng cũng không đứng ngoài những nguyên nhân làm cho môi trường VH - XH biến đổi xấu đi. Nếu chúng ta không có những hành động thích hợp, những vấn đề này sẽ trở nên trầm trọng hơn và tiếp tục phá hoại tính bền vững của du lịch.
1.2.2. Phát triển du lịch vùng duyên hải Nam Trung bộ
Những thế mạnh thúc đẩy phát triển du lịch bền vững
DHNTB bao gồm 8 tỉnh, thành phố: Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Duyên hải Nam Trung bộ có đường bờ biển dài hơn 800 km với hàng trăm vịnh, đảo đẹp cùng những bãi tắm cát trắng, nước trong xanh, sạch và ấm quanh năm là những tiềm năng tài nguyên du lịch vượt trội của vùng này. Những bãi biển đẹp như Non Nước, Mỹ Khê (Đà Nẵng), Cửa Đại (Quảng Nam), Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), Quy Nhơn (Bình Định), Vân Phong, Đại Lãnh, Nha Trang (Khánh Hòa), Ninh Chữ, Cà Ná (Ninh Thuận), Mũi Né (Bình Thuận)… có thể đầu tư phát triển thành những khu nghỉ dưỡng biển cao cấp có sức hấp dẫn du lịch mạnh mẽ.
Hệ thống đảo gần bờ hầu như còn nguyên sơ, nhiều đảo có diện tích đủ lớn có thể phát triển du lịch như bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Hòn Tre, Hòn Tằm (Khánh Hòa), Phú Quý (Bình Thuận).
Bên cạnh tiềm năng tự nhiên, các giá trị nhân văn với bề dày lịch sử và truyền thống lâu đời của vùng cũng tạo sức hấp dẫn thu hút khách du lịch.
Các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ, từ Bình Thuận đến Quảng Nam đều có đền tháp Chămpa. Qua hàng trăm năm tồn tại, dù bị xuống cấp ít nhiều, nhưng các tháp Chăm vẫn lưu giữ những nét huyền ảo, như Nhóm đền tháp Poshanu (Bình Thuận),
Quần thể tháp Poklongarai (Ninh Thuận), Tháp Bà Ponagar (Nha Trang), Tháp Nhạn (Phú Yên). Quảng Nam có Thánh địa Mỹ Sơn đã được công nhận di sản văn hóa thế giới. Mỹ Sơn là một tổng thể kiến trúc gồm 70 đền tháp Chăm và một số lớn bia ký có niên lịch liên tục qua nhiều thế kỷ từ IV-XIII, trong đó nhiều nhất vào khoảng thế kỷ VI-IX. Ngoài Mỹ Sơn, Bình Định là nơi tập trung số lượng và quy mô kiến trúc tháp Chăm nhiều và tương đối nguyên vẹn nhất trong khu vực, với 8 cụm tháp gồm 14 kiến trúc có niên đại từ cuối thế kỷ XI đến thế kỷ XIII. Các cụm tháp ở Bình Định có đủ mặt mọi loại hình trong các nhóm kiến trúc tháp Chăm hiện còn.
Một di sản văn hóa khác của khu vực là đô thị cổ Hội An (Quảng Nam), di sản văn hóa thế giới. Từ cuối thế kỷ 16, nơi này là thương cảng phồn thịnh nhất của xứ Đàng Trong, nơi các thương thuyền của Nhật Bản, Trung Hoa, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan... đến trao đổi, mua bán hàng hóa qua các triều đại chúa Nguyễn. Hội An là một quần thể kiến trúc cổ gồm nhiều công trình nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu mạo, giếng cầu, nhà thờ tộc, bến cảng, chợ… và những con phố hẹp chạy ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn cờ. Đây được xem là một bảo tàng sống về kiến trúc và lối sống đô thị cổ.
DHNTB còn được biết đến là nơi phát tích những câu dân ca Bài chòi mượt mà và các vở tuồng cổ hùng tráng. Các lễ hội truyền thống, các làng nghề truyền thống và các di sản vật thể và phi vật thể khác tạo nên quần thể tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn vô cùng phong phú, hấp dẫn.
Những năm qua, các tỉnh vùng DHNTB đã biết nắm lấy lợi thế về tài nguyên để khai thác phát triển du lịch. Du lịch đang khẳng định vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế chung của vùng.
Tăng trưởng bình quân khách du lịch toàn vùng:
- Giai đoạn 1995 – 2000 đạt mức 15,4%/năm (khách du lịch quốc tế tăng 13,6%/năm, khách du lịch nội địa tăng 16,4%/năm).
- Giai đoạn 2001 – 2005 đạt mức 24,4%/năm (khách du lịch quốc tế tăng 23,6%/năm, khách du lịch nội địa tăng 25%/năm).
- Giai đoạn 2006 – 2010 đạt mức 16,7%/năm (khách du lịch quốc tế tăng 11,6%/năm, khách du lịch nội địa tăng 18,4%/năm).
Năm 1995, khách du lịch toàn vùng chỉ có 921.940 lượt, thì năm 2000 con số này lên tới 1.703.438 lượt (tăng 1,8 lần so với năm 1995). Năm 2005 đạt 5.020.650 lượt (tăng 2,9 lần so với năm 2000). Năm 2010 toàn vùng đón 10.782.000 lượt khách du lịch, trong đó 2,3 triệu khách quốc tế và 8,4 triệu khách nội địa (khách du lịch tăng 2,2 lần so với năm 2005).
Bảng 1.4: Khách du lịch các tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ
Tổng số khách du lịch | Khách quốc tế | Khách nội địa | ||||
Số lượng (lượt khách) | Tốc độ tăng trưởng (%) | Số lượng (lượt khách) | Tốc độ tăng trưởng (%) | Số lượng (lượt khách) | Tốc độ tăng trưởng (%) | |
1995 | 921.940 | 269.698 | 652.242 | |||
1996 | 1.103.604 | 19,7 | 319.816 | 18,6 | 783.788 | 20,2 |
1997 | 866.526 | - 21,5 | 280.334 | -12,3 | 586.202 | -25,2 |
1998 | 1.032.773 | 19,2 | 308.994 | 10,2 | 723.779 | 23,5 |
1999 | 1.133.239 | 09,3 | 327.503 | 6,0 | 805.736 | 11,3 |
2000 | 1.703.438 | 50,3 | 476.438 | 45,5 | 1.227.000 | 52,3 |
2001 | 2.377.678 | 39,6 | 575.187 | 20,7 | 1.802.491 | 46,9 |
2002 | 2.889.324 | 21,5 | 669.799 | 16,4 | 2.219.525 | 23,1 |
2003 | 3.246.916 | 12,4 | 877.099 | 30,9 | 2.369.817 | 6,8 |
2004 | 4.045.048 | 24,6 | 1.086.225 | 23,8 | 2.958.823 | 24,9 |
2005 | 5.020.650 | 24,1 | 1.373.473 | 26,4 | 3.647.177 | 23,3 |
2006 | 6.145.732 | 22,4 | 1.535.119 | 11,8 | 4.610.613 | 26,4 |
2007 | 7.539.243 | 22,7 | 1.859.481 | 21,1 | 5.679.762 | 23,2 |
2008 | 8.567.270 | 13,6 | 2.147.726 | 15,5 | 6.419.544 | 13,0 |
2009 | 9.132.880 | 6,6 | 2.083.680 | -3,0 | 7.049.200 | 9,8 |
2010 | 10.782.000 | 18,1 | 2.344.500 | 12,5 | 8.437.500 | 19,7 |
Nguồn: Viện NCPT Du lịch
Cùng với gia tăng khách du lịch, thu nhập du lịch các tỉnh trong vùng cũng tăng nhanh. Năm 2010 thu nhập du lịch toàn vùng đạt 7.275 tỷ đồng, tăng 8,7 lần so với năm 2000, trong đó tập trung chủ yếu ở 4 tỉnh, thành phố: Bình Thuận, Khánh Hòa, Đà Nẵng và Quảng Nam (xem biểu đồ 1.2 và 1.3).
Nghìn lượt Tỷ đồng
8438
Khách quốc tế
Khách nội địa Thu nhập du lịch
7.275
7049
6420
5.947
5680
5.090
4611
3647
3.805
2959
2.882
2220
2370
2.260
2148
2084
2345
1803
1.732
1859
1227
833
476
1.225
1.366
1374
1535
992
575
1086
670
877
9000
8000
7000
6000
5000
4000
3000
2000
1000
8.000
6.000
4.000
2.000
0
đồ 1.2: Khách và thu nhập du lịch vùng duyên hải Nam Trung Bộ
Nguồn: Viện NCPT Du lịch
Biểu
Tỷ đồng
3000
2500
2000
1500
Đà Nẵng
Quảng Nam Quảng Ngãi
Bình Định Phú Yên
Khánh Hòa
Ninh Thuận
1000
Bình Thuận
500
0
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
đồ 1.3: Thu nhập du lịch các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ
Nguồn: Viện NCPT Du lịch
Biểu