KDL Núi Cấm có nhiều danh lam thắng cảnh tiêu biểu, đồng thời cũng là các điểm DL được xếp hạng I, II như chùa Vạn Linh, chùa Phật Lớn, tượng phật Di Lặc, hồ Thủy Liêm ... Ngoài ra, dọc theo những lối mòn từ chân lên tới đỉnh có nhiều điểm tham quan khác như: suối Thanh Long, suối Tiên, điện Cây Quế, điện 13 tầng, điện Tam Thanh, điện Huỳnh Long, hang Ông Thẻ, hang Ông Hổ,
hang Bác Vật Lang, động Thủy Liêm, vồ
Thiên Tuế, vồ
Bồ Hong. Trong quá
trình phát triển, nhiều hạng mục đã đầu tư và đang hoàn thiện KDL Núi Cấm như: khu vui chơi giải trí, khu dịch vụ hành hương, khu biệt thự nghỉ dưỡng..., từ đó phát triển nhiều loại hình DL tâm linh, DL sinh thái, DL nghỉ dưỡng. Năm 2017, KDL Núi Cấm đã đón hơn 1,5 triệu lượt khách DL tham quan, đứng thứ 2 ở An Giang sau KDL Núi Sam. Hiện nay, KDL Núi Cấm đã đưa vào sử dụng hệ thống cáp treo hiện đại (chiều dài tuyến 3,5 km, với 02 nhà ga, gồm 16 trụ, giai đoạn I: 67 cabin với công suất 1.500 người/giờ (8 người trên 01 cabin), giai đoạn II: 89 cabin với công suất 2.000 người/giờ), được thiết kế với trụ cáp và một hệ thống đường bộ trên sườn núi và thung lũng.
Hạn chế: dịch vụ còn đơn điệu, hệ thống các đường giao thông nội bộ còn chưa hoàn thiện; còn tình trạng chèn ép, lôi kéo khách DL.
+ KDL núi Sập
KDL núi Sập là tên gọi chung cho KDL hồ Ông Thoại và Đền thờ Thoại Ngọc Hầu nằm dưới chân núi Sập, thuộc thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An, cách TP Long Xuyên khoảng 26km.
Núi Sập có tên chữ là Thoại Sơn, là ngọn núi lớn nhất trong cụm bốn núi gồm: núi Sập, núi Nhỏ, núi Bà và núi Cậu. Núi Sập có độ cao 85m với chu vi 3.800m. Cùng với việc khai thác đá đã tạo ra nơi đây những hố sâu và rộng, các lòng hồ xanh biếc và thông nhau bằng đường hầm xuyên núi. Khu lòng hồ rộng khoảng 9ha, chia thành 3 hồ. Hồ lớn và đẹp nhất được đặt tên là hồ Ông Thoại, nhằm tưởng nhớ công lao khai phá vùng đất An Giang và đào kênh Thoại Hà của Thoại Ngọc Hầu. Bên triền núi Sập là ngôi đền thờ Thoại Ngọc Hầu được dựng vào năm Minh Mạng thứ ba 1822. Nơi đây còn lưu giữ tấm bia cổ Thoại Sơn, ghi
bài văn do chính ông biên soạn để đánh dấu công trình đào kênh Thoại Hà vào năm 1818. Với sự đa dạng về loại hình, KDL núi Sập không chỉ là điểm vui chơi giải trí mà còn là một điểm đến văn hóa mang giá trị lịch sử và tâm linh, thu hút du khách.
Hạn chế: CSVCKT và CSHT còn chưa được đầu tư; nằm cách xa cụm DL trung tâm Châu Đốc nên khó liên kết; dịch vụ và loại hình DL còn hạn chế.
+ KDL núi Két
KDL Núi Két nằm trên địa bàn xã Thới Sơn, huyện Tịnh Biên. Núi Két còn có tên gọi là Anh Vũ Sơn, cao 266m, chu vi 5.250m. Núi tiếp giáp với phía đông của thị trấn Nhà Bàng, được bao bọc bởi những ngọn núi khác như: núi Dài, núi Đất, núi Trà Sư và núi Bà Đắc.
KDL Núi Két còn giữ được những đặc điểm thiên nhiên cũng như những nét nguyên sơ của vùng Bảy Núi, với nhiều công trình tâm linh, kiến trúc đẹp như: điện U Minh, Bửu Sơn Tự, Bửu Minh Tự, đình Thới Sơn, điện Ngọc Hoàng, điện Bạch Vân, điện Phật Thầy, điện Phật Mẫu, điện Huỳnh Long, điện
Ba Cô, điện Chư Vị
Năm Non Bảy Núi…. Loại hình DL chủ
yếu là DL tín
ngưỡng, tâm linh. Hiện nay, KDL núi Két đang được đầu tư một số hạng mục với mục đích vừa phát huy tiềm năng DL vừa bảo tồn, gìn giữ những giá trị lịch sử, giúp cho khách tham quan có dịp gần gũi với thiên nhiên và hướng về nguồn cội.
Hạn chế: Loại hình chủ
yếu là DL tâm linh, các dịch vụ
còn hạn chế,
CSHT còn hoang sơ, chưa được đầu tư trọng điểm.
+ KDL hồ Soài So núi Tô (Tri Tôn)
KDL Hồ
Soài So nằm
ở sườn phía Đông núi Cô Tô, thuộc xã Núi Tô,
huyện Tri Tôn. Đây là KDL sinh thái với sự kết hợp của hồ tự nhiên và các cảnh quan khu vực núi Tô.
Trung tâm của KDL là hồ Soài So. Hồ có diện tích khoảng 5ha với dung tích nước khoảng 400.000m3 từ dòng suối Bạc đổ xuống. Khu vực hồ Soài So có phong cảnh hữu tình với khí hậu mát mẻ, trong lành, là nơi thích hợp để du khách
vừa thong thả nghỉ ngơi, thư giãn vừa thưởng ngoạn phong cảnh núi non. Vào mùa nước nổi từ tháng 9 đến tháng 11 (thời điểm này có thể thay đổi theo từng
năm), nước hồ dâng cao, trong xanh và mênh mông hơn, tạo nên cảnh tượng
mênh mông của vùng sông nước.
Hạn chế: Hoạt động DL còn tự
phát, loại hình và dịch vụ
DL còn đơn
điệu.
3.3. Thực trạng liên kết du lịch giữa An Giang với vùng phụ cận
Thực trạng liên kết DL giữa An Giang và VPC được phản ánh thông qua hoạt động liên kết khai thác TNDL và phát triển SPDL, hoạt động liên kết xây dựng tour, chương trình DL, trao đổi dịch vụ, hoạt động liên kết quảng bá, xúc tiến DL, hoạt động liên kết đào tạo nhân lực,... Trong giới hạn, luận án tập trung phân tích 2 nội dung liên kết chính ở An Giang và VPC là liên kết về khai thác tài nguyên, phát triển SPDL; và liên kết về xây dựng tuyến, chương trình DL. Bên cạnh các số liệu thứ cấp từ các cơ quan quản lí nhà nước về DL, luận án cũng
thống kê các chương trình DL cũng như thực hiện phỏng vấn một số công ty
cung ứng dịch vu, lữ hành, lưu trú đang hoạt động tại địa bàn An Giang, Cần
Thơ, Kiên Giang và Đồng Tháp.
3.3.1. Liên kết về khai thác tài nguyên và phát triển sản phẩm du lịch
a. Phương diện liên kết
Liên kết khai thác TNDL và phát triển SPDL là nội dung quan trọng trong liên kết PTDL giữa An Giang và VPC. Liên kết khai thác TNDL và phát triển SPDL tạo ra sức hấp dẫn, giúp khách DL có thể trải nghiệm nhiều giá trị, đồng thời góp phần đa dạng hóa dịch vụ, hạn chế sự trùng lặp về phát triển DL giữa các địa phương. Thông qua liên kết khai thác TNDL và phát triển SPDL tiến tới thực hiện mục tiêu về xây dựng không gian và SPDL có tính đặc thù toàn vùng.
Nhìn chung thực trạng liên kết về khai thác tài nguyên và SPDL giữa An Giang và các địa phương VPC tập trung ở một số khía cạnh sau:
* Liên kết trong đánh giá các TNDL của An Giang và VPC tiến tới xây dựng SPDL đặc thù của không gian liên kết
Nội dung liên kết này được thể hiện Chương trình hợp tác phát triển DL Cụm phía Tây khu vực ĐBSCL (gồm 7 tỉnh thành: Cần Thơ, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Hậu Giang, do Hiệp hội DL ĐBSCL chủ trì). Trong đó, nội dung liên kết về khai thác TNDL được xem là trọng tâm. Trong không gian DL này, các TNDL có tính nổi trội gồm TNDL gắn với sông nước sinh thái, TNDL biển đảo, TNDL tâm linh lễ hội. Gắn liền với nó là các SPDL có tính đặc thù gắn với không gian các địa phương An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp: SPDL nghỉ dưỡng biển đảo Phú Quốc, Hà Tiên; DL lễ hội: Vía Bà Chúa Xứ, lễ hội đua bò Bảy Núi; DL sinh thái: VQG Phú Quốc, U Minh Thượng, VQG Tràm Chim, rừng tràm Trà Sư, KDL sinh thái Gáo Giồng.
Đối với An Giang và địa phương VPC (Cần Thơ, Kiên Giang), hàng năm thông qua cụm liên kết phía Tây, các địa phương thực hiện đánh giá các điểm DL tiêu biểu vùng ĐBSCL, trên cơ sở đó góp phần hình thành sản phẩm DL mang tính liên vùng “ĐBSCL – Một điểm đến, 4 địa phương +”. Trong đó, một số TNDL có tính đặc sắc, nổi bật của từng địa phương được đưa vào chương trình xây dựng SPDL này gồm: Miếu Bà và các điểm KDL Núi Sam; rừng tràm Trà Sư; KDL Núi Cấm. Ở VPC, các TNDL được kết hợp gồm Bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng, làng DL Mỹ Khánh (Cần Thơ); Đảo Phú Quốc, Hà Tiên (Kiên Giang); VQG Tràm Chim; Gáo Giồng (MTDA, 2018).
* Liên kết hợp tác phát triển kinh doanh SPDL trực tuyến liên vùng
Thông qua triển khai áp dụng hình thức thương mại điện tử B2B, B2C, B2G và C2C các đơn vị cung ứng dịch vụ DL, công ty lữ hành hướng tới việc đa dạng hóa các hình thức mua bán và phân phối sản phẩm cho khách DL. An Giang và các tỉnh, thành lân cận đang tiếp cận xây dựng mô hình liên minh DL mở (Open Travel Alliance – OTA). Đây là hình thức thiết lập một vùng hợp tác có cùng một chuẩn quản lí và trao đổi thông tin với nhau tiến đến thiết lập các chuẩn lợi ích, khuyến mãi cho khách hàng khi tham gia sử dụng SPDL của vùng.
b. Đối tượng tham gia liên kết
Đối tượng tham gia liên kết gồm các cơ quan quản lí nhà nước về DL, các đơn vị cung ứng dịch vụ DL, các đơn vị lữ hành (gắn với cơ sở lưu trú, cơ sở ăn uống và dịch vụ bổ trợ) ở An Giang với VPC.
Cơ quan quản lí nhà nước về DL: Liên kết khai thác TNDL và phát
triển SPDL có sự tham gia các cơ quan quản lí nhà nước về DL ở An Giang và VPC. Cụ thể, Sở VH – TT – DL An Giang và các cơ quan bộ phận như Hiệp hội DL An Giang, Trung tâm xúc tiến DL An Giang,.. đã tham gia liên kết trong xây dựng chiến lược và phát triển SPDL cụm liên kết phía Tây (gồm 7 địa phương trong đó có An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang). Bên cạnh đó, các hội nghị liên kết thường niên hàng được tổ chức giữa các đơn vị thành viên trong Hiệp hội DL cũng góp phần tăng cường tính liên kết giữa các cơ quan này, cũng như kết nối các cơ quan quản lí nhà nước về DL ở các địa phương trong cụm.
Công ty cung ứng dịch vụ DL, công ty lữ hành: Mối liên kết giữa các đơn vị cung ứng dịch vụ DL với các đơn vị lữ hành DL giữa An Giang với VPC đóng vai trò rất quan trọng trong khai thác và phát triển SPDL liên vùng. Theo số liệu thống kê của Sở VH – TT – DL An Giang, năm 2017, toàn tỉnh có 18 đơn vị cung cấp dịch vụ DL và lữ hành (6 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế), bao gồm cả các chi nhánh Saigontourist, Viettravel ở An Giang… Các công ty này thường xuyên đánh giá, cập nhập các TNDL, điểm DL đặc sắc và đưa vào các tour của công ty. Đồng thời, tại các sự kiện quảng bá, các đơn vị này cũng tham gia vào việc kí kết hợp tác trong xây dựng tour, chia sẻ kinh nghiệm quản lí, hỗ trợ trao đổi hướng dẫn viên,…
c. Sản phẩm từ liên kết:
Ở cấp độ quản lí: Trên cơ sở liên kết giữa các cơ quan quản lí nhà nước về DL, bước đầu đã hình thành chuỗi SPDL có tính liên vùng dựa trên kết hợp giữa SPDL An Giang với TNDL của VPC. Điển hình chuỗi SPDL liên vùng “ĐBSCL 4 địa phương, một điểm đến +” nhằm khai thác tối đa lợi thế của từng địa phương, tạo sức hút với khách DL.
Bảng 3.15. Liên kết TNDL và SPDL liên vùng giữa An Giang và VPC
Giá trị TNDL khác biệt của VPC | Chuỗi SPDL liên kết “4 địa phương, 1 điểm đến +” | |||
Cần Thơ | Kiên Giang | Đồng Tháp | ||
Giá trị TNDL đặc sắc | ||||
Lễ hội, tâm linh (Lễ Vía bà, Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam) Giá trị văn hóa cộng đồng Chăm, Khmer (Lễ Đua bò Bảy Núi, lễ Tết Chăm An Giang) | Sông nước, đô thị (Bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng,…) Vườn cây ăn quả, sinh thái (Phong Điền, vườn cò Bằng lăng,…) | Biển đảo | Hệ sinh thái đặc thù đất ngập nước nội địa (khu bảo tồn thiên nhiên Láng Sen VQG Tràm Chim) | Chuỗi sản phẩm tâm linh, lễ hội kết hợp với tham quan sông nước, biển đảo. |
Chuỗi sản phẩm tâm linh, lễ hội với tham quan hệ sinh thái tại VQG, tại các điểm sinh thái sông nước. |
Có thể bạn quan tâm!
- Lượt Khách Quốc Tế Của An Giang Và Các Địa Phương Vpc, 2007 2017
- Đánh Giá Tổng Hợp Điểm Dl Ở An Giang (Chưa Có Trọng Số)
- Đánh Giá, Phân Loại Điểm Dl Phân Theo Địa Phương Tỉnh An Giang
- Liên Kết Giữa Một Số Đơn Vị Kinh Doanh Lữ Hành, Khách Sạn Nhà
- Về Thực Trạng Liên Kết Du Lịch Giữa Tỉnh An Giang Và Vùng Phụ Cận
- Quy Hoạch Phát Triển Du Lịch Trong Chiến Lược Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Tỉnh An Giang Đến Năm 2020, Tầm Nhìn 2030
Xem toàn bộ 266 trang tài liệu này.
(Nguồn: Tổng hợp từ Bộ VH – TT – DL, 2017)
Sự liên kết bước đầu tạo ra các chuỗi sản phẩm bao gồm các SPDL của An Giang kết hợp với các TNDL ở VPC. Cụ thể:
Chuỗi SPDL tâm linh, lễ hội kết hợp với tham quan sông nước, biển đảo: Kết nối hầu hết các điểm DL trọng điểm của An Giang (Miếu Bà và các chùa trong KDL Núi Sam, KDL Núi Cấm), Cần Thơ (Bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng, cụm sinh thái ven sông), Kiên Giang (Đảo Phú Quốc và các đảo ven bờ; Hà Tiên).
Chuỗi SPDL tâm linh, lễ hội với tham quan hệ sinh thái tại VQG, tại các điểm sinh thái: cùng với KDL Núi Sam, KDL Núi Cấm, chuỗi sản phẩm này còn chứa đựng các giá trị TNDL lớn như VQG Tràm Chim, VQG U Minh Thượng, VQG Phú Quốc…
Trên thực tế, các chuỗi SPDL này bước đầu được đưa vào khai thác ở một số tuyến, tour, chương trình DL của một số công ty lữ hành ở An Giang và các địa phương VPC (phụ lục 7.4). Tuy nhiên, hiệu quả liên kết TNDL và SPDL còn hạn chế, nhiều sản phẩm còn rất mờ nhạt do chưa đem lại hiệu quả, chủ yếu
vẫn dừng lại ở việc kí kết. Nguyên nhân chiń h dẫn đến thực trạng naỳ làdo địa
phương còn khai thác tài nguyên có sẵn hoặc sao chép, chậm đổi mới vềSPDL. Vì vậy, tính chất độc đáo, giá trị nguyên bản và ý tưởng của sản phẩm DL coǹ
nghèo nàn, đơn điệu, liên kêt́ chắp va,́ trùng lặp, chưa có chiều sâu giữa cać phương.
địa
Ở cấp độ các đơn vị cung ứng dịch vụ DL và công ty lữ hành: Các sản phẩm liên kết thể hiện chủ yếu ở các tour, chương trình DL của đơn vị cung ứng dịch vụ DL và công ty lữ hành. Lấy ví dụ cụ thể, trong các chương trình của
Viettravel Long Xuyên tuyến Cần Thơ – An Giang – Kiên Giang, SPDL hành
hương tâm linh thường kết nối các điểm DL tâm linh nổi bật như (Cần Thơ), Miếu Bà Chúa Xứ, Chùa Phật Lớn (An Giang).
Chùa Ông
Nhìn chung, các sản phẩm được tạo ra từ việc liên kết nhìn chung còn đơn điệu, hạn chế, ít có sự đầu tư về chiều sâu, sáng tạo nên thiếu những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế; đầu tư còn thiếu sự hợp tác giữa các địa phương nên dẫn đến sự trùng lặp về sản phẩm.
3.3.2. Liên kết về xây dựng tuyến, chương trình du lịch
a. Phương diện liên kết
Liên kết về xây dựng tuyến, chương trình DL (tour) thể
hiện rõ sự
tác
động tương hỗ của nhiều đối tượng tham gia hoạt động DL ở An Giang và VPC. Các tuyến, chương trình DL liên kết sẽ góp phần quan trọng trong việc phát huy các lợi thế so sánh về TNDL của từng địa phương, qua đó giúp khách có nhiều trải nghiệm mới lạ, đặc sắc, đa dạng, trên cơ sở này thúc đẩy PTDL của các địa phương liên kết.
Liên kết về xây dựng tuyến, chương trình DL tập trung ở một số nội dung cụ thể sau:
Liên kết trong quy hoạch tuyến DL liên vùng: Đây là nội dung ở tầm vĩ
mô, thể
hiện sự kết nối các điểm, KDL
ở An Giang và VPC theo tuyến giao
thông cố định. Việc xác định tuyến DL mang tính liên vùng phụ thuộc nhiều vào sự tham gia của cơ quan quản lí nhà nước về DL (chính quyền địa phương, sở ban ngành), đồng thời có sự đồng hành tham gia của các đối tượng vĩ mô là công
ty cung ứng dịch vụ DL, công ty lữ hành, các cơ sở lưu trú,... Các nội dung này thể hiện qua các văn bản kí kết giữa các bên tại các hội nghị liên kết thường niên của các cụm ở ĐBSCL, hoặc hội nghị xúc tiến liên kết giữa An Giang với một số địa phương trong và ngoài vùng ĐBSCL, trong đó có Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp (phụ lục 8).
Liên kết về xây dựng chương trình, điểm đến, hệ thống dịch vụ và chính sách vận hành. Đối với các đơn vị trong cùng một hệ thống, có mạng lưới rộng
khắp cả
nước và vùng (điển hình như
Saigontourist, Viettravel, khách sạn
Victoria…), các chương trình DL, điểm đến, hệ thống dịch vụ và chính sách vận hành có sự nhất quán và đồng bộ. Hầu hết các chương trình DL của các đơn vị lữ hành này đều được quản lí một cách có hệ thống. Đối với các đơn vị lữ hành, cơ sở lưu trú độc lập ở An Giang và VPC, mức độ liên kết nhìn chung còn hạn chế do các đơn vị này ít chia sẻ lợi nhuận cho nhau trong quá trình hoạt động.
Bên cạnh đó, còn có hoạt động liên kết hỗ trợ trao đổi tour, hướng dẫn trao đổi nhân viên: Trong một số trường hợp, nhằm hỗ trợ nhau và tạo thuận tiện hoạt động, một số đơn vị lữ hành có liên kết trong việc hỗ trợ trao đổi tour, trao đổi nhân viên. Lấy ví dụ cụ thể, các công ty lữ hành ở An Giang cũng bước đầu liên kết với các công ty lữ hành ở Cần Thơ, Kiên Giang, Đồng Tháp theo hướng trao đổi kinh nghiệm, kết hợp tour, hỗ trợ hướng dẫn viên,...
b. Đối tượng tham gia liên kết
Việc xây dựng tuyến, chương trình DL có sự tham gia của nhiều đối tác, ngoài cơ quan quản lí nhà nước, chủ thể tham gia một cách trực tiếp là các đơn vị cung ứng dịch vụ DL, đơn vị lữ hành đi kèm với cơ sở phục vụ lưu trú, giải trí, ăn uống. Vai trò quan trọng của đối tượng này góp phần quy định mức độ liên kết về tuyến DL cũng như chương trình DL.
Ở An Giang, sự liên kết giữa các đơn vị cung ứng dịch vụ DL, các đơn vị lữ hành, cơ sở lưu trú khá đa dạng. Tính liên kết không chỉ diễn ra giữa các đơn vị cùng hệ thống mà còn có liên kết với các đơn vị ngoài hệ thống.