• Hình thành và duy trì các khu bảo vệ và các hành lang bảo tồn của các mối quan tâm về du lịch. Các nhà quản lý của các khu bảo vệ công cộng thường là những người thực hiện hiệu qủa nhất cho những lợi ích bảo tồn từ việc phát triển du lịch.
• Phân chia các lợi tức thuế cho việc bảo vệ các điểm thu hút du lịch dựa trên đa dạng sinh học như các công viên quốc gia và các khu bảo tồn.
Tại điểm du lịch, chính quyền địa phương thường chịu trách nhiệm thực hiện chính sách liên quan đến du lịch và công tác bảo tồn. Chính quyền địa phương đóng vai trò đàm phán giữa các mối quan tâm của địa phương và các đơn vị kinh doanh từ bên ngoài, xã hội và các cơ quan trung ương, và họ nắm giữ quyền điều chỉnh cần thiết và uỷ nhiệm phân vùng mà cho phép thực hiện cưỡng chế theo các hướng dẫn và tiêu chuẩn. Mặt khác, năng lực của chính quyền địa phương để quản lý ngành phức tạp và rời rạc này một cách hiệu quả cũng như đảm bảo những đóng góp tích cực của nó đến các chiến lược của cộng đồng cho việc phát triển bền vững là còn phụ thuộc vào việc soạn thảo các chính sách địa phương phải gắn kết với các công cụ và các cơ quan luật quốc gia.
Tuy nhiên cũng cần phải lưu ý đến sự thiếu đồng bộ trong chính sách, sự phối hợp không nhịp nhàng giữa các cơ quan chức năng sẽ tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với tài nguyên du lịch, đặc biệt là trong công tác bảo tồn sự đa dạng sinh học. Đây cũng là bài học mà nhiều quốc đang phát triển đã từng gặp phải, hậu quả là sự thất bại về mục tiêu của chính sách bảo tồn.
1.1.4. Chiến lược phát triển du lịch hướng đến sự bền vững
Vấn đề phát triển bền vững nhận được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà Nước, điều đó được cụ thể hóa bằng việc Chính phủ ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam”, đây là văn kiện có tính phương pháp luận chung cho mọi hoạt động kinh tế - xã hội, ngành du lịch cũng trên cơ sở này xây dựng chiến lược phát triển du lịch đến năm 2020 và
tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược đã xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng thúc đẩy các ngành khác phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mang lại tiến bộ xã hội. Phát triển du lịch bền vững, đảm bảo tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa, gắn với an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội, khai thác tối ưu lợi thế quốc gia, các nguồn lực trong và ngoài nước. Phấn đấu đến năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại, sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, có sức cạnh tranh mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, thân thiện với môi trường, đưa Việt Nam trở thành điểm đến có đẳng cấp trong khu vực. Năm 2030, đưa Việt Nam thành một trong những điểm đến du lịch ưa chuộng, có đẳng cấp trên thế giới. Đồng thời chiến lược cũng xác định địa bàn trọng điểm của du lịch Việt Nam,từ các địa bàn trọng điểm này, các khu di lịch trọng điểm cũng được xác định trong chiến lược và trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch các trung tâm, các tỉnh trong địa bàn.
Quán triệt tinh thần nêu trên trong thời gian gần đây, các dự án, các kế hoạch phát triển du lịch, đã chú trọng đến việc bảo tồn tài nguyên cho mục tiêu phát triển bền vững lâu dài. Những tài nguyên có giá trị cao đối với du lịch nhưng nhạy cảm với cá tác động của quá trình phát triển đã được đưa vào không gian bảo tồn nghiêm ngặt, hoặc có kế hoạch khai thác giới hạn hoặc đưa vào không gian có mức độ ưu tiên đầu tư phát triển thấp như các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu bảo vệ sinh cảnh, các khu bảo tồn biển, các khu di sản… Trong các dự án phát triển du lịch ở các khu vực nhạy cảm các nguyên tắc về phát triển bền vững đã được chú trọng. quá trình khai thác tài nguyên cho phát triển du lịch đã thực hiện các hoạt động đánh giá tác động môi trường đưa ra các phân tích, dự báo và biện pháp khắc phục cụ thể cho từng dự án khi phê duyệt. Hiện nay, các dự án phát triển du lịch trong các Vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu dự trữ sinh
quyển đều tập trung đầu tư phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng như các dự án phát triẻn du lịch sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, các vườn quốc gia Hoàng Liên, Cát Bà, Ba Bể, Bạch Mã, Chư Yang Sin, Yok Don, Tràm Chim, Phú Quốc…
Hoạt động phát triển du lịch đang dần hướng tới cộng đồng dân cư còn nhiều khó khăn trong đời sống như ở các vùng nông thôn, vùng núi và hải đảo xa xôi. Biểu hiện rõ rệt nhất là những loại hình du lịch thân thiện với môi trường đồng thời khai thác các giá trị tự nhiên và nhân văn ở các vùng sâu, vùng xa, góp phần phát triển du lịch và nâng cao đời sống cộng dồng dân cư dư du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái ngày càng được chú trọng và phát triển rộng rãi. Quy hoạch tổng thể của du lịch Việt Nam đã xác định sản phẩm du lịch đặc trưng của các vùng du lịch: vùng du lịch Bắc bộ là du lịch văn hóa kết hợp với du lịch sinh thái, tham quan, nghi dưỡng; vùng du lịch Bắc Trung bộ là du lịch tham quan các di tích văn hóa - lịch sử kết hợp với du lịch biển, hang động và du lịch quá cảnh; vùng Nam Trung bộ và Nam bộ là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước và du lịch sinh thái. Một số khu du lịch sinh thái ở Việt Nam đã và đang khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch và đóng góp cho sự phát triển cộng đồng. Trong đó đáng kể là hai khu du lịch sinh thái được tổ chức du lịch thế giới đánh giá là khu du lịch sinh thái bền vững của thế giới bao gồm: khu du lịch Văn Xá (Cần Giờ - TP Hồ Chí Minh) và khu du lịch suối nước nóng Bình Châu (Xuyên Mộc – Vũng Tàu).
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh - 1
- Phát triển du lịch theo hướng bền vững ở Quảng Ninh - 2
- Tiêu Chí Đánh Giá Tính Bền Vững Của Hoạt Động Du Lịch
- Ecomost: Mô Hình Du Lịch Bền Vững Của Cộng Đồng Châu Âu
- Chính Sách Phát Triển Du Lịch Quảng Ninh.
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
1.1.5. Những điều kiện cơ bản đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững
Xây dựng chính sách phát triển du lịch hướng đến sự bền vững. Xã hội hiện đại là một xã hội có tính tổ chức cao, mọi hoạt động đều được quản lí bởi một bộ máy nhất định và có nó có vai trò quyết định đến hoạt động của cộng đồng, hoạt động du lịch cũng không nằm ngoài quy luật chung đó, một quốc gia hay một địa phương giàu tiềm năng về tài nguyên du lịch, nhưng
không có chính sách phát triển hợp lí thì cũng không phát huy một cách hiệu quả các tiềm năng lợi thế sẵn có, hoạt động du lịch cũng là một hoạt động kinh tế, nếu để nó diễn ra một cách tự phát sẽ dẫn đến tình trạng chạy theo mục tiêu lợi nhuận, gây tổn hại đến tài nguyên và nhiều hậu quả nghiêm trọng khác. Đây là bài học đã được lịch sử phát triển của ngành du lịch nhiều nơi trên thế giới chứng minh. để đảm bảo phát triển du lịch bền vững cần phải có chính sách phát triển hợp lí, thể hiện tầm nhìn chiến lược, phát huy được tiềm năng thế mạnh, thu được lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, bảo vệ được tài nguyên môi trường. Tuy nhiên đây cũng là một thách thức không nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, bởi những hạn chế về mặt kinh tế và trình độ hoạch định chính sách.
Phát triển cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật đảm bảo cho phát triển du lịch bền vững. Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những phương tiện vật chất của xã hội, Nó bao gồm mạng lưới và phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, công trình cung cấp điện, nước, công viên toàn dân, mạng lưới thương nghiệp của khu dân cư, rạp chiếu phim, nhà hát, viện bảo tàng…v.v. Cơ sở hạ tầng là đòn bẩy thúc đẩy sự mọi hoạt động kinh tế xã hội của đất nước, đối với ngành du lịch cơ sở hạ tầng là yếu tố khai thác tiềm năng du lịch và nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch, mặt khác phát triển du lịch cũng giúp phát triển cơ sở hạ tầng của một quốc gia hoặc một địa phương. Muốn phát triển du lịch bền vững, cơ sở hạ tầng cần phải đi trước một bước, phải được đầu tư hiện đại đồng bộ.
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch như hệ thống nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí và cơ sở vật chất kỹ thuật của một số ngành kinh tế quốc dân tham gia phục vụ du lịch: thương nghiệp, dịch vụ… Cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò quyết định trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác tài nguyên du lịch, thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì
vậy nên sự phát triển của ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật. Để đảm bảo cho việc phát triển du lịch bền vững, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chú trọng mối quan hệ với tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch có tính nhạy cảm cao.
Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ phát triển du lịch bền vững. Trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động luôn là yếu tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển. Điều này càng trở nên cần thiết trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của hoạt động du lịch. Chất lượng đội ngũ lao động là nhân tố quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và kết qủa cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng du lịch nhìn từ góc độ kinh tế. Như vậy, chất lượng cao của đội ngũ lao động không chỉ là yếu tố thu hút khách, nâng cao uy tín của ngành, của đất nước mà còn là một yếu tố quan trọng trong cạnh tranh thu hút khác, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững và được coi là một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết sự phát triển bền vững của du lịch.
Đầu tư cho du lịch đảm bảo phát triển bền vững: Đối với bất kỳ ngành kinh tế nào, đầu tư luôn là đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành kinh tế đó. Các nguồn vốn đầu tư tồn tại dưới hai dạng là các nguồn vốn huy động và các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như các nguồn vốn đầu tư trong nước, đặc biệt là các nguồn vốn huy động trong nhân dân để phát triển các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ, có tác dụng làm phong phú thêm các loại hình dịch vụ tạo công ăn việc làm tránh rủi ro… thì các nguồn vốn đầu tư nước ngoài lại có vai trò như đòn bẩy thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và nền kinh tế nói chung. Phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi có sự thích nghi nhanh đối với những thay đổi bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan để hạn chế được những rủi ro. Điều này có thể thực hiện được nhờ việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với tư cách là một ngành kinh tế, hoạt động phát triển du lịch cần quan tâm đến vấn đề này để đảm bảo sự phát triển bền vững đứng ở góc độ kinh tế. Điều này càng có ý nghĩa đối với những quốc gia đang phát triển, nơi năng lực quản lý ở quy mô quốc gia còn nhiều hạn chế. Đầu tư mang tính địa phương sẽ hạn chế được tỷ lệ “rò rỉ” lợi nhuận du lịch. Ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, việc phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có ý nghĩa về xã hội, tạo điều kiện để một bộ phận lớn người lao động địa phương có việc làm. Bên cạnh đó, đây còn là môi trường thu hút được nguồn lực to lớn của xã hội cho phát triển du lịch, phù hợp tính chất xã hội hóa cao của du lịch, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Ngoài việc xem xét đến nguồn và giá trị vốn đầu tư, trên quan điểm phát triển bền vững, đối tượng đầu tư (cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất phục vụ du lịch, tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực…) cũng là yếu tố quan trọng cần được đánh giá và xem xét như một dấu hiệu quan trọng của phát triển bền vững. Việc xem xét, đánh giá dấu hiệu này có thể thông qua các chi tiêu về tỷ lệ vốn đấu tư cho tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường trong một dự án hoặc tỷ lệ các khu, điểm du lịch của một địa phương được đầu tư tôn tạo, bảo vệ. Khu vực nào, quốc gia nào càng có nhiều các khu, điểm du lịch được đầu tư bảo vệ, tôn tạo chứng tỏ hoạt động phát triển du lịch ở khu vực, quốc gia đó càng gắn với mục tiêu phát triển bền vững. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới, nếu tỷ số này vượt quá 50% thì hoạt động du lịch được xem là trong trạng thái phát triển bền vững.
Thêm vào đó, trong việc đầu tư, ngoài nguồn đầu tư từ Nhà nước hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, nguồn đầu tư quan trọng là từ thu nhập du lịch. Nguồn đầu tư này càng lớn càng chứng tỏ được ý thức của ngành du lịch đối với tầm quan trọng của phát triển bền vững. Chính vì vậy quy mô đầu tư (tỷ lệ tái đầu tư) từ thu nhập du lịch sẽ được xem là dấu hiệu nhận biết quan trọng của phát triển du lịch bền vững từ góc độ đảm bảo bền vững của tài nguyên,
môi trường. Không những vậy, tỷ lệ doanh thu mà ngành du lịch trích lại cho cơ quan chủ quản các nguồn tài nguyên du lịch để tái đầu tư càng cao chứng tỏ khả năng phối hợp liên ngành tốt.
Tổ chức và kiểm tra các hoạt động du lịch đảm bảo phát triển bền vững: Trong quá trình tổ chức và quản lý các hoạt động phát triển du lịch, việc xây dựng quy hoạch làm căn cứ cho triển khai thực hiện các kế hoạc phát triển cụ thể đóng vai trò quan trọng. Quy hoạch là quá trình phân tích các tiềm lực tài nguyên và các điều kiện có liên quan để xác định phương án phát triển phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu quả tiềm năng tài nguyên du lịch và có được các giải pháp hạn chế tác động của hoạt động phát triển đến môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, số lượng các khu, điểm du lịch được quy hoạch sẽ là dấu hiệu nhận biết của quá trình phát triển du lịch bề vững đứng từ góc độ đảm bảo sự bền vững về tài nguyên, môi trường cũng như từ góc góc đảm bảo sự phát triển về kinh tế, góp phần tích cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của khu vực.
Việc quản lý và hạn chế những áp lực lên môi trường và các nguồn tài nguyên thông qua các biện pháp quản lý và giảm thiểu chất thải, mức độ kiểm soát các hoạt động phát triển bao gồm cả các hoạt động bảo tồn và duy trì tính đa dạng trong đó việc duy trì các hệ sinh thái đặc hữu đang bị đe dọa. Việc kiểm soát các hoạt động phát triển phục vụ mục tiêu phát triển bền vững cũng được thực hiện thông qua việc tiến hành các thủ tục đánh giá tác động môi trường tại các khu, điểm du lịch, hoặc một hình thức tương đương như các hoạt động kiểm soát chính thức về môi trường tại các khu, điểm du lịch. Đây là một trong những dấu hiệu nhận biết quá trình phát triển bền vững khá quan trọng và được xác định thông qua việc xem xét có hay chưa có, thực hiện hay chưa thực hiện các biện pháp quản lý, kiểm soát trên.
Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo xác định được cường độ hoạt động của các điểm du lịch sao cho không vượt quá ngưỡng tiêu chuẩn về môi
trường, tiêu thụ năng lượng và sức chứa. Giới hạn lượng khách là cần thiết, vì nó bảo vệ sự đa dạng sinh học, đảm bảo cung cấp năng lượng vừa đủ.
Phát triển du lịch bền vững cần chú ý đến độ hài lòng của cộng đồng địa phương. Hoạt động phát triển du lịch sẽ bền vững nếu có được ủng hộ
của cộng đồng địa phương. Chính vì vậy, mức độ hài lòng của cộng đồng đối với hoạt động du lịch sẽ phản ánh trạng thái bền vững của hoạt động du lịch trong phát triển.
Để đạt được sự hài lòng của cộng đồng, vài trò của cộng đồng phải được phát huy cũng như đem lại lợi ích cho cộng đồng, cụ thể:
- Phát huy được vai trò của cộng đồng trong xây dựng, triển khai quy hoạch phát triển du lịch.
- Phát huy vai trò của cộng đồng trong giám sát thực hiện dự án đầu tư, phát triển du lịch trên địa bàn.
- Tăng cường quy mô và mức độ tham gia của cộng đồng vào hoạt động du lịch.
- Nâng cao mức sống của cộng động nhờ có hoạt động du lịch.
- Phúc lợi xã hội chung của cộng đồng được nâng lên
Để xác định được dấu hiệu này, cần tiến hành điều tra phỏng vấn cộng đồng. Kết quả điều tra sẽ là căn cứ để điều chỉnh hoạt động sao cho phát triển hoạt động du lịch mang tính bền vững hơn từ góc độ xã hội.
Nếu như việc thu hút khách du lịch quốc tế chủ yếu nhằm tăng nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế thì việc thu hút khách du lịch nội địa còn có ý nghĩa tạo điều kiện phân phối lại thu nhập giữa các thành phần lao động trong xã hội, góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội, hỗ trợ tích cực cho các chương trình cứu trợ của Chính phủ như các chương trình xóa đói giảm nghèo, nâng cao nhận thức cho cộng đồng… Như vậy đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công mục tiêu đặt ra của phát triển bền vững cả dưới góc độ về kinh tế và góc độ xã hội.