cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một giá trị sử dụng, mới quyết định đại lượng giá trị của giá trị sử dụng ấy” (C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội.1993, t23, tr 68).
Hàng hóa dịch vụ du lịch trên thị trường cũng có hai thuộc tính cơ bản của hàng hoá là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị sử dụng của hàng hóa dịch vụ du lịch là công dụng của nó, như nói ở trên là thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người. Từ học thuyết giá trị của C. Mác cho chúng ta thấy rằng, sản phẩm của ngành dịch vụ nói chung và du lịch nói riêng cũng mang đầy đủ những đặc điểm của sản phẩm hàng hoá, nó được tạo ra nhờ quá trình lao động của những người hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Chính lao động cụ thể của người lao động trong ngành du lịch đã tạo nên giá trị sử dụng của các sản phẩm du lịch, đồng thời hao phí lao động trừu tượng của người lao động trong ngành dịch vụ du lịch tạo nên giá trị của các sản phẩm du lịch. Thời gian lao động xã hội cần thiết trung bình của người lao động trong ngành dịch vụ du lịch sẽ quyết định giá trị xã hội của sản phẩm du lịch. Sản phẩm dịch vụ du lịch là sản phẩm phi vật thể và quá trình sản xuất của nó gắn liền với quá trình tiêu thụ, chính vì vậy không thể dùng trực quan để đánh giá chất lượng sản phẩm mà phải thông qua mức độ thỏa mãn, hài lòng của khách hàng khi sử dụng sản phẩm du lịch.
Trên thị trường, giá cả thị trường của các sản phẩm ngành du lịch được biểu hiện thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa dịch vụ du lịch cũng tuân theo yêu cầu của qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh và các quy luật kinh tế khác của nền kinh tế thị trường. Quy luật giá trị trong hoạt động du lịch cũng giống như quy luật giá trị trong hoạt động kinh tế đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở lượng giá trị xã hội hay thời gian lao động xã hội cần thiết. Đó là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất, cung ứng một sản phẩm du lịch hay dịch vụ du lịch trong điều kiện bình thường của xã hội với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình của những người lao động trong ngành du lịch, phù hợp với một giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội. Chính thời gian lao động xã hội cần thiết này sẽ hình thành nên giá trị xã hội và giá cả thị trường của các sản phẩm du lịch trên thị trường.
Trong học thuyết giá trị thặng dư, khi nghiên cứu về hàng hoá sức lao động – loại hàng hoá đặc biệt là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Hàng hoá sức lao động cũng có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng như các hàng hoá thông thường, tuy nhiên C. Mác cho rằng: giá trị của hàng hóa sức lao động, được đo lường và xác định gián tiếp bằng giá trị những tư liệu tiêu dùng để nuôi sống người lao động và gia đình. Giá trị hàng hóa sức lao động bao gồm các yếu tố vật chất, tinh thần và lịch sử. Các yếu tố vật chất của hàng hoá sức lao động bao gồm tư liệu tiêu dùng về vật chất để tái tạo sức lao động cho chính bản thân người lao động; chi phí đào tạo người lao động; tư liệu tiêu dùng vật chất để nuôi sống gia đình người lao động. Nhu cầu tinh thần của người lao động bao gồm nghỉ ngơi, giải trí, du lịch…Những giá trị vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu cho người lao động và gia đình phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước trong từng giai đoạn. Như vậy, theo C. Mác du lịch là một trong những nhu cầu tinh thần của người lao động, khi xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu tinh thần của người lao động cũng được nâng cao trong đó có nhu cầu về du lịch. Kinh tế càng phát triển, thu nhập của người lao động ngày càng tăng, thì nhu cầu hưởng thụ các sản phẩm tinh thần trong đó có du lịch ngày càng tăng. Từ đó tạo điều kiện cho các loại hình du lịch sinh thái, du lịch văn hóa - lịch sử, du lịch nghiên cứu, du lịch khám phá, du lịch nghỉ dưỡng… ngày càng phát triển
Tóm lại học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác – Lênin không chỉ là tiền đề, phương pháp luận khoa học không những cho các hoạt động kinh tế nói chung mà còn có ý nghĩa trong nghiên cứu hoạt động dịch vụ du lịch nói riêng.
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch
Từ năm 1994, khi Việt Nam bắt đầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW về “Phát triển du lịch trong tình hình mới” nhằm đưa ra các quan điểm chỉ đạo cho phát triển du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 1998, khi hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra mạnh
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập quốc tế giai đoạn 2016 - 2025 - 1
- Phát triển du lịch thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập quốc tế giai đoạn 2016 - 2025 - 2
- Lý Luận Của Chủ Nghĩa Mác – Lênin Về Ngành Dịch Vụ, Du Lịch
- Hoạt Động Quảng Bá, Tiếp Thị Cho Phát Triển Du Lịch
- Thực Trạng Hoạt Động Của Ngành Du Lịch Tp. Hcm Trong Hội Nhập Quốc Tế Thời Gian Qua
- Thống Kê Số Lượng Khách Nội Địa Đến Tphcm So Với Cả Nước Giai Đoạn 2011 – 2015
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
mẽ, Bộ Chính trị đã họp bàn chuyên đề về phát triển du lịch và ban hành “Thông báo Kết luận số 179-TB/BCT” trong đó nêu rõ ý kiến chỉ đạo: cần tập trung, đẩy mạnh phát triển du lịch tương xứng với tiềm năng của đất nước.
Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 09/6/2014 về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” trong đó nhấn mạnh: cần phải bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Sau đó Chính phủ ban hành Nghị quyết số 92/NQ-CP ngày 8/12/2014 về “một số giải pháp đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới” trong đó đã xác định một số các giải pháp cơ bản cần tập trung cho phát triển du lịch như: nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển du lịch; tăng cường hỗ trợ của nhà nước cho phát triển du lịch; tạo điều kiện thuận lợi, bảo đảm an ninh, an toàn để thu hút khách và phát triển du lịch; hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp du lịch; tăng cường quản lý nhà nước về du lịch.
Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng năm 2016 tiếp tục khẳng định rõ chủ trương: “Có chính sách phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội, 2016, tr 288); “Hình thành một số trung tâm dịch vụ du lịch tầm cỡ khu vực và quốc tế” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội, 2016, tr 94). Đồng thời, Nghị quyết Đại hội lần thứ XII cũng chỉ rõ: “Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch với hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, sản phẩm đa dạng và tính chuyên nghiệp cao. Tạo mọi thuận lợi về thủ tục xuất nhập cảnh, đi lại và bảo đảm an toàn, an ninh. Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hóa, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và gìn giữ vệ sinh môi trường. Phát triển các khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn, chất lượng cao” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội, 2016, tr 288).
Trong “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 2743/QĐ-TTg ngày 29-12- 2011 nêu rõ: Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; du lịch chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng phát triển theo chiều sâu đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu và khả năng cạnh tranh. Phát triển đồng thời cả du lịch nội địa và du lịch quốc tế; chú trọng du lịch quốc tế đến; tăng cường quản lý du lịch ra nước ngoài. Phát triển du lịch bền vững gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc; giữ gìn cảnh quan, bảo vệ môi trường; bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa, huy động mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển du lịch; phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế quốc gia về yếu tố tự nhiên và văn hóa dân tộc, thế mạnh đặc trưng các vùng, miền trong cả nước; tăng cường liên kết phát triển du lịch.
Như vậy, có thể thấy Đảng, Quốc hội và Nhà nước luôn quan tâm và đánh giá cao vai trò, vị trí của du lịch Việt Nam cũng như du lịch TP.HCM trong phát triển kinh tế - xã hội, coi du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn, huy động nguồn lực của các thành phần kinh tế để phát triển du lịch, đồng thời cũng xác định những nội dung quan trọng cho phát triển du lịch như đầu tư cho phát triển du lịch, đa dạng hoá sản phẩm, xúc tiến, quảng bá xây dựng thương hiệu, bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch…
1.4. Nhân tố tác động đến sự phát triển của du lịch trong hội nhập quốc
tế
1.4.1. Sản phẩn du lịch
Mỗi vùng, mỗi quốc gia, địa phương có tiềm năng tự nhiên, tiềm năng kinh tế
- xã hội, văn hoá và nhân văn khác nhau. Khi du lịch phát triển sẽ tác động đến xu hướng của con người muốn tìm hiểu những sản phẩm du lịch mới lạ, hấp dẫn của từng mỗi vùng, mỗi quốc gia. Chính vì vậy, để phát triển du lịch đòi hỏi phải xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo, đặc thù của đất nước, địa phương mình, đáp ứng
nhu cầu thiết thực mà du khách muốn tìm đến. Sản phẩm du lịch phải thường xuyên được cải tiến để thu hút nhiều dạng khách hàng khác nhau, điển hình như quần đảo Langkawi của Malaysia từng một thời được xem là “Thiên đường du lịch” nhưng sau đó đã bị giảm sút nghiêm trọng, sự sa sút này là do cơ quan xúc tiến du lịch đã ngủ say trên “ thiên đường du lịch” của mình thiếu năng động, thiếu sáng tạo và làm mới lại các sản phẩm du lịch đặc thù mang tính độc đáo từ đó đã không thu hút được du khách. Vì vậy, mỗi thành phố, mỗi vùng hay mỗi quốc gia cần tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù dựa trên lợi thế của từng vùng, từng địa phương từng quốc gia và tìm cách để làm cho sản phẩm du lịch của mình ngày càng trở nên phong phú và đa dạng nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của du khách, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của du lịch
Kinh nghiệm phát triển du lịch của một số nước cho thấy cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp du lịch với chính quyền và cộng đồng địa phương trong việc quy hoạch các điểm, phát triển các sản phẩm du lịch đặc thù, các khu du lịch và các chương trình du lịch. Vì vậy, ngành du lịch cần hết sức tranh thủ vận động để có sự ủng hộ của toàn thể xã hội, ra sức liên kết chặt chẽ với các ngành, các cấp và các địa phương, luôn chia sẻ lợi ích cho họ vì hơn ai hết, họ là người biết cặn kẽ những nét đặc thù của địa phương mình và có thể đóng góp ý kiến, công sức có giá trị cho việc xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch đặc sắc.
Sản phẩm du lịch dù có chất lượng cao nhưng không đảm bảo môi trường du lịch an ninh, an toàn thì cũng không thể thu hút du khách. Vì vậy, môi trường du lịch an ninh, an toàn mang ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển du lịch của mỗi quốc gia. Ngoài ra, phát triển sản phẩm du lịch phải đi đôi với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái, biết giữ gìn và bảo vệ những nguồn tài nguyên đó một cách hiệu quả nhất. Kinh nghiệm của các nước đã chỉ rõ phát triển du lịch phải đảm bảo cho nguồn tài nguyên du lịch không được xuống cấp. Bên cạnh đó, cần lưu ý đến sức chứa của các điểm du lịch, không nên để tình trạng quá tải xảy ra vì điều đó sẽ làm cho cảnh quan môi trường bị ô nhiễm và xuống cấp nhanh chóng, song song đó nên
giáo dục cho du khách ý thức trân trọng và giữ gìn cảnh quan môi trường, đảm bảo trật tự, vệ sinh tại các điểm du lịch.
1.4.2. Nguồn nhân lực cho phát triển du lịch
Để phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế, đòi hỏi phải có đội ngũ nguồn nhân lực đáp ứng về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đồng thời phải ngày càng chuyên nghiệp, đặc biệt là trình độ ngoại ngữ, sự hiểu biết về lịch sử, văn hoá, phong tục, tập quán của các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, còn phải có đội ngũ các nhà quản lý du lịch có trình độ, có tầm nhìn, am hiểu về du lịch để đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.
Để đáp ứng được đòi hỏi về nguồn nhân lực cho du lịch như đã nêu trên, cần phải tăng cường các lớp đào tạo dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ du lịch. Chú trọng khả năng ngoại ngữ và kiến thức về văn hóa dân tộc, kiến thức về văn hóa thế giới, ứng xử trong việc giới thiệu tường tận về lịch sử, văn hóa, danh lam, thắng cảnh…với du khách một cách chuyên nghiệp nhằm đáp ứng đúng đòi hỏi thực tiễn hiện nay và sự nghiệp phát triển du lịch lâu dài, bền vững.
Đẩy mạnh liên kết giữa các cơ sở đào tạo về du lịch với các doanh nghiệp sử dụng, để đảm bảo việc đào tạo có hiệu quả, gắn lý luận với thực tiễn. Thông qua hoạt động du lịch, nền giáo dục của các quốc gia được cập nhật hằng năm, đồng thời thu hẹp khoảng cách giữa lý thuyết và thực tiễn. Vấn đề đặt ra là cần phải tạo điều kiện để những người được đào tạo về du lịch đến nơi sử dụng trực tiếp nhìn và nghe thực tế. Vì vậy, các cơ sở đào tạo du lịch cần thường xuyên tổ chức các chuyến du lịch học tập để giúp người học củng cố kiến thức, làm cho du lịch là phương tiện hữu hiệu để bổ khuyết những điều đã học trong nhà trường.
1.4.3. Cơ sở hạ tầng vật chất, kỹ thuật và thu hút vốn đầu tư cho phát triển du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thật có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của ngành du lịch, đồng thời có tác động hỗ tương lẫn nhau. Hằng năm với số lượng lớn khách du lịch qua lại đã đem lại nhiều tỷ đô la thu nhập cho các công ty cung ứng du lịch, các hãng vận tải hàng không, đường biển, đường sắt...Ngược lại, cơ sở vật chất kỹ thuật
phát triển sẽ trở thành động lực thúc đẩy người đi du lịch gia tăng hơn. Vì vậy, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển, bao gồm cả mạng lưới cơ sở vật chất hạ tầng phương tiện vận chuyển, hệ thống quản lý hiện đại và môi trường giao thông trật tự, an toàn cũng là một trong những tài nguyên du lịch, góp phần phát triển du lịch chất lượng cao, làm thu hút du khách trong hội nhập quốc tế.
Ngoài ra sự phát triển mạnh mẽ của viễn thông, tin học cũng sẽ góp phần tích cực đến việc phát triển du lịch. Đối với du khách, đặc biệt là du khách từ các nước phát triển, dịch vụ viễn thông là sự sống còn cho sự phát triển của quốc gia là dịch vụ tiện ích không thể thiếu được trong quá trình tham gia du lịch. Đối với đơn vị cung ứng du lịch, viễn thông còn là phương tiện vô cùng cần thiết trong việc tổ chức, quản lý, kinh doanh hoạt động du lịch. Viễn thông phát triển đã thúc đẩy mối quan hệ giao thương giữa các quốc gia ngày càng tốt hơn, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư quốc tế, nắm bắt nhanh những thông tin quảng bá về du lịch của các nước trên thế giới, làm tăng mối quan hệ gắn bó chặt chẽ giữa các quốc gia, từ đó tác động trực tiếp đến phát triển ngành du lịch. Ngày nay, du khách và các nhà cung ứng dịch vụ du lịch như lữ hành, khách sạn...có thể liên lạc với nhau trực tiếp để giải quyết mọi vấn đề có liên quan đến chuyến du lịch. Tất cả thực hiện thông qua máy vi tính nối mạng với các thao tác nhanh chóng, thuận lợi, dễ thực hiện. Trên thực tế, sự phát triển của viễn thông tin học đã làm tăng sức cạnh tranh của ngành du lịch. Do đó, những quốc gia phát triển du lịch hàng đầu trên thế giới cũng là những quốc gia có ngành viễn thông và công nghệ thông tin phát triển mạnh nhất.
Chúng ta biết rằng, để phát triển du lịch ngoài nguồn lực có sẵn của từng quốc gia thì vấn đề đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị là hết sức cần thiết… do đó, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trong khi điều kiện vốn của chính phủ có hạn. Vì vậy, đòi hỏi phải huy động vốn của các thành phần kinh tế cùng tham gia thực hiện. Việc xã hội hóa trong đầu tư phát triển du lịch đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng và mang lại thành công rất tốt, điển hình như ở Malaysia thông qua chương trình du lịch sinh thái nghỉ tại nhà dân là sản phẩm rất hấp dẫn và đã thực hiện tại 05 làng thí điểm, từ việc huy động cơ sở vật chất của từng hộ nhà dân sử dụng làm nhà nghỉ đã
giảm chi phí đầu tư của dự án rất lớn, đồng thời vừa đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng mang tính sinh thái, dân dã phù hợp với xu thế nhu cầu của du khách hiện nay.
Thực tế cho thấy, việc đầu tư phát triển du lịch cần có nguồn vốn lớn, trong khi các quốc gia kém phát triển hầu hết đều thiếu cả về vốn lẫn chất xám, vì vậy đòi hỏi phải kêu gọi, thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển ngành du lịch. Việc thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng sẽ tác động làm gia tăng sản lượng quốc gia theo lý thuyết bội số đầu tư của Keynes, thu nhập của xã hội tăng lên sẽ tạo cho người dân cơ hội và điều kiện để chi tiêu cho du lịch nhiều hơn, hiệu quả cao hơn.
Phát triển du lịch sẽ thu hút một lượng lớn người lao động tham gia vào các hoạt động du lịch từ khâu sản xuất các sản phẩm du lịch đơn lẻ, từ các hoạt động này sẽ góp phần tích cực đến việc đối phó với nạn thất nghiệp ở các quốc gia. Nếu so sánh cùng một lượng vốn đầu tư như nhau thì ngành dịch vụ nói chung và du lịch nói riêng, bao giờ ngành du lịch cũng sử dụng số lao động nhiều hơn ngành công nghiệp. Yếu tố lao động tham gia trong ngành du lịch được các quốc gia, các nhà kinh tế xem là một trong những phương thức để giải quyết thành công nạn thất nghiệp trên thế giới.
1.4.4. Quản lý nhà nước trong phát triển du lịch
Để phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế, cần phải có thể chế, cơ chế quản lý du lịch phù hợp với từng thời kỳ phát triển. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của chiến lược phát triển du lịch của từng quốc gia, từ thể chế, cơ chế này chính phủ sẽ đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp để phát triển du lịch một cách hiệu quả nhất. Điển hình như Trung Quốc một quốc gia được xem là thành công trong phát triển du lịch, nhưng trước đây đất nước này cũng đã trải qua các giai đoạn thăng trầm để rút ra được hướng đi đúng nhất và thành công này chủ yếu từ thể chế, cơ chế quản lý du lịch, năm 1976 khi kết thúc “cách mạng văn hóa” thể chế quản lý du lịch bắt đầu được xây dựng từng bước, năm 1982, Tổng Cục Quản lý sự nghiệp du lịch Lữ hành Trung Quốc và Tổng Công ty dịch vụ lữ hành Hoa kiều Trung Quốc tách ra không bao gồm chức năng kinh