Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Du Lịch


Cung trong du lịch là khả năng cung cấp dịch vụ và hàng hoá du lịch khác, nhằm đáp ứng các nhu cầu du lịch. Nó bao gồm toàn bộ hàng hoá du lịch (cả hàng hoá và dịch vụ du lịch) đưa ra thị trường. Cung du lịch không đồng nhất với sản phẩm du lịch. Cung du lịch bao gồm toàn bộ số lượng hàng hoá (hàng hoá hiện vật và hàng hoá dịch vụ du lịch) mà người bán có khả năng và sẵn sàng bán ở các mức giá khác nhau trong một thời gian và không gian xác định. Sản phẩm du lịch bao gồm toàn bộ giá trị sử dụng thoả mãn nhu cầu du lịch nhất định. Như vậy sự khác nhau là ở chỗ có những giá trị tiêu dùng được tạo ra nhưng không qua thị trường thì chỉ là sản phẩm du lịch mà chúng không phải là cung du lịch.

Cung du lịch có các đặc trưng cần phân biệt với các dạng hàng hoá thông thường khác nhau: cung du lịch chủ yếu không tồn tại ở dạng hiện vật (chủ yếu là dịch vụ), cung du lịch rất khó thay đổi tương ứng với biến động của thị trường; cung du lịch thường có hạn trong một thời điểm nhất định, muốn giảm thiểu ảnh hưởng của sự hạn chế đó cần có sự phối hợp giữa các doanh nghiệp trong toàn ngành, doanh nghiệp du lịch có tính chuyên môn hoá cao.

Cung du lịch chịu sự tác động của các yếu tố như: sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tiến bộ khoa học, kỹ thuật, sự phát triển quan hệ sản xuất, các yếu tố của sản xuất, số lượng người sản xuất, các kỳ vọng của họ, mức độ tập trung hoá của cung, các chính sách khuyến khích phát triển du lịch của mỗi quốc gia, mỗi vùng, miền và đặc biệt ảnh hưởng của cầu du lịch đến sự gia tăng số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm du lịch.

- Các loại hình du lịch

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau mà hoạt động du lịch có thể được phân thành nhiều loại hình du lịch khác nhau. Tuy nhiên, các tiêu chí lại phụ thuộc vào quan điểm chủ quan và góc độ tiếp cận của các tác giả.

Căn cứ theo môi trường tài nguyên thì hoạt động du lịch được chia thành hai nhóm là du lịch văn hóa (hoạt động du lịch diễn ra chủ yếu trong môi trường


nhân văn) và du lịch thiên nhiên (hoạt động du lịch diễn ra nhằm thỏa mãn nhu cầu về với thiên nhiên của con người).

Căn cứ theo nhu cầu và mục đích chuyến đi du lịch được chia thành: du lịch tham quan (nhằm nâng cao hiểu biết của du khách về thế giới xung quanh), du lịch giải trí (nhằm thư giãn, xả hơi, giải trí bứt ra khỏi công việc thường nhật để phục hồi sức khỏe); du lịch nghỉ dưỡng (nhằm giảm tải sức ép của công việc căng thẳng, của môi trường ô nhiễm, của các quan hệ xã hội...); du lịch khám phá (nhằm tìm hiểu thiên nhiên, môi trường, tìm hiểu phong tục tập quán, tìm hiểu về lịch sử); du lịch lễ hội... Ngoài ra còn có sự kết hợp hoạt động du lịch trong các chuyến đi vì các mục đích khác nhau như: tôn giáo, học tập, nghiên cứu, hội nghị, thể thao, chữa bệnh, thăm thân, kinh doanh...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 153 trang tài liệu này.

Căn cứ vào lãnh thổ hoạt động thì du lịch được chia thành du lịch quốc tế (gồm du lịch đón khách quốc tế và du lịch gửi khách ra nước ngoài) và du lịch nội địa.

Căn cứ vào thời gian, hình thức tổ chức có thể phân chia du lịch thành du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày, du lịch tập thể, du lịch cá thể, du lịch và du lịch gia đình.

Phát triển du lịch ở Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế - 4

Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm du lịch có thể có các loại hình du lịch như: du lịch biển, du lịch núi, du lịch đô thị, đô thị thôn quê...

1.1.2. Phát triển du lịch

1.1.2.1. Quan niệm về phát triển du lịch

Để nhận thức đầy đủ về phát triển du lịch, cần tiếp cận ở nhiều nội dung khác nhau.

Phát triển du lịch gắn với sự tăng trưởng, phát triển ổn định lâu dài về mặt kinh tế của các doanh nghiệp và của ngành du lịch, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế của quốc gia và cộng đồng. Những chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện sự tăng trưởng là: mức gia tăng lượng khách du lịch; mức tăng thu nhập từ du lịch; mức tăng quy mô cơ sở vật chất kỹ thuật; số lượng việc làm tăng thêm từ


phát triển du lịch.

Phát triển du lịch còn được thể hiện ở mức độ thay đổi phương thức tiến hành các hoạt động du lịch theo hướng ngày càng hiện đại và hiệu quả đem lại từ các hoạt động du lịch đó. Cụ thể là những sản phẩm du lịch, những hướng phát triển hiệu quả có tốc độ phát triển nhanh, những công nghệ, phương thức phục vụ hiện đại có năng suất cao được chú trọng phát triển; cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch được đầu tư có hiệu quả bảo đảm sự phát triển có tính bền vững cao; mức độ và chất lượng tham gia của du khách, dân cư và chính quyền địa phương cũng như các nhà kinh doanh du lịch và quá trình phát triển ngày càng tự giác, tích cực trên cơ sở tinh thần cộng đồng và sự hài hòa về lợi ích.

Phát triển du lịch phải bảo đảm sự hài hoà giữa 3 mục tiêu: kinh tế - xã hội và môi trường. Về kinh tế, phải bảo đảm duy trì nhịp tăng trưởng theo thời gian và sự tăng trưởng phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động và hiệu quả cao chứ không phải chỉ dựa trên sự gia tăng của các yếu tố đầu vào. Về mặt xã hội, sự phát triển hoạt động kinh doanh du lịch phải có những đóng góp cụ thể cho phát triển xã hội, đảm bảo sự công bằng trong phát triển, ít nhất phải được hiểu trên cơ sở quan điểm toàn diện và bình đẳng giữa các bên tham gia vào hoạt động du lịch, không phải chỉ là thu nhập mà trên tất cả các phương diện khác. Tiếp đến phải quan tâm đến sự bình đẳng giữa các thế hệ. Mở rộng cơ hội lựa chọn hưởng thụ các sản phẩm du lịch của thế hệ hôm nay, nhưng không làm tổn hại đến cơ hội lựa chọn của thế hệ mai sau. Về mặt môi trường, thể hiện ở việc khai thác sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch và điều kiện môi trường. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên cho phát triển kinh doanh du lịch cần được quản lý sao cho không chỉ thỏa mãn nhu cầu phát triển trong hiện tại mà còn đảm bảo cho nhu cầu phát triển qua nhiều thế hệ. Bên cạnh đó trong quá trình phát triển, các tác động của hoạt động kinh doanh du lịch đến môi trường sẽ được hạn chế đi đôi với những đóng góp cho các nỗ lực tôn tạo tài nguyên, bảo vệ môi trường.


1.1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển du lịch

Thứ nhất, sự phát triển của nền sản xuất xã hội đã làm xuất hiện nhu cầu du lịch. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rằng sự xuất hiện và mở rộng những nhu cầu khác nhau (trong đó có nhu cầu du lịch) là kết quả của nền sản xuất. Nền sản xuất xã hội càng phát triển thì nhu cầu của con người càng lớn và đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Ở những nước có nền kinh tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu du lịch còn hạn chế. Ngược lại, nhu cầu nghỉ ngơi, du lịch ở những nước kinh tế phát triển rất phổ biến và đa dạng. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã làm cho hoạt động sản xuất của con người thay đổi tận gốc, lao động chân tay giảm xuống nhưng cường độ và sự căng thẳng trong lao động lại tăng lên. Điều đó đòi hỏi phải được phục hồi sức lực sau những ngày làm việc căng thẳng thông qua con đường nghỉ ngơi du lịch. Những ứng dụng khoa học công nghệ cũng làm cho năng suất lao động, mức sống vật chất, mức thu nhập của mỗi người lao động tăng lên, trình độ văn hóa chung của người dân cao. Đó là tiền đề để du lịch có bước phát triển mới và vững chắc.

Hai là, các nhân tố an ninh, điều kiện chính trị ổn định, sự an toàn của du khách cũng như vấn đề môi trường sinh thái là những nhân tố đặc biệt quan trọng có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế du lịch. Du lịch chỉ có thể phát triển trong môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác giữa các dân tộc. Thông qua du lịch quốc tế con người tăng cường hiểu biết, thân thiện và hữu nghị với nhau.

Ba là, tài nguyên du lịch - nhân tố đặc trưng cho hoạt động du lịch. Du lịch là ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt vì nếu không có nhân tố này thì khó có thể phát triển du lịch. Tài nguyên du lịch có thể do thiên nhiên ban tặng, cũng có thể do con người tạo ra. Các tài nguyên thiên nhiên thường do: địa hình đa dạng, phong phú; khí hậu ôn hoà, mát mẻ, thuận lợi cho nghỉ dưỡng; động thực vật phong phú, đặc sắc; tài nguyên nước; vị trí địa lý mang lại. Tài nguyên nhân văn là các giá trị văn hoá, lịch sử, các thành tựu chính trị, kinh tế có ý


nghĩa đặc trưng cho phát triển du lịch ở một vùng, một địa danh nào đó có sức hấp dẫn khách du lịch đến với các mục đích khác nhau. Sự phong phú của tài nguyên du lịch làm phong phú loại hình và sản phẩm du lịch. Một lãnh thổ có nhiều tài nguyên du lịch các loại với chất lượng cao, có sức hấp dẫn khách du lịch lớn và mức độ kết hợp các loại tài nguyên phong phú thì sức thu hút du khách càng mạnh.

Bốn là, hệ thống kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho kinh tế du lịch. Kết cấu hạ tầng nói chung có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh phát triển du lịch. Việc phát triển giao thông, nhất là tăng nhanh phương tiện vận chuyển cho phép mau chóng khai thác tài nguyên du lịch. Sự kết hợp hài hòa giữa tài nguyên du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật giúp cho các hoạt động kinh tế du lịch có hiệu quả, kéo dài thời gian và công suất sử dụng. Vị trí của tài nguyên du lịch là căn cứ để bố trí cơ sở vật chất kỹ thuật trên các vùng lãnh thổ và tiền đề để hình thành các trung tâm, các điểm, các khu du lịch để đảm bảo cho kinh tế du lịch phát triển trên quy mô lớn.

Ngoài ra còn các nhân tố phục vụ khách du lịch vô cùng quan trọng gồm: các điều kiện về tổ chức chung như: sự sẵn sàng chuyên nghiệp của bộ máy tổ chức Nhà nước chung và chuyên ngành với hệ thống thể chế quản lý đầy đủ, hợp lý và đội ngũ cán bộ với số lượng, cơ cấu, trình độ cao v.v.). Hệ thống các doanh nghiệp kinh doanh như khách sạn, lữ hành, vận chuyển và các dịch vụ khác.

1.1.3. Các xu hướng phát triển du lịch hiện nay

Ngày nay, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế lớn nhất thế giới, ở nhiều quốc gia du lịch là ngành kinh tế hàng đầu. Trong những năm tới dự đoán du lịch sẽ phát triển theo các xu hướng sau:

* Xu hướng phát triển của cầu du lịch

Sự phát triển của cầu du lịch dự đoán theo 6 xu hướng sau:

- Nhu cầu du lịch ngày càng tăng, du lịch trở thành một tiêu chuẩn đánh giá mức sống của dân cư.


- Du lịch quốc tế phát triển, phân bố các luồng khách, hướng du lịch thay đổi. Châu Á ngày càng thu hút nhiều khách du lịch, trong khi lượng khách đến châu Âu, châu Mỹ có xu hướng giảm tương đối.

- Cơ cấu chi tiêu của du khách thay đổi theo hướng tỷ trọng chi tiêu cho các dịch vụ cơ bản giảm tương đối, trong lúc tỷ trọng chi tiêu cho các dịch vụ bổ sung tăng lên.

- Du khách có nhu cầu thay đổi hình thức tổ chức chuyến đi theo hướng tự do hơn, đa dạng hơn.

- Sự hình thành các nhóm du khách theo độ tuổi với các mục đích và nhu cầu khác nhau.

- Du khách có nhu cầu đi du lịch nhiều địa điểm trong một chuyến du lịch. Việc nắm bắt xu thế phát triển cầu du lịch là rất cần thết để kịp thời đáp ứng.

* Xu hướng phát triển của cung du lịch

Có nhiều nhân tố chi phối sự phát triển của cung du lịch, trong đó, đặc biệt là sự chi phối của cầu du lịch và sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp trong ngành. Những năm tới đây dự đoán các xu hướng phát triển cung du lịch như sau:

- Danh mục sản phẩm du lịch được mở rộng, phong phú, có nhiều sản phẩm độc đáo.

- Hệ thống tổ chức bán sản phẩm du lịch cũng phát triển, có nhiều hình thức tổ chức du lịch phù hợp với nhu cầu du lịch đa dạng.

- Vai trò của tuyên truyền quảng cáo trong du lịch ngày càng được nâng cao.

- Ngành du lịch ngày càng được hiện đại hoá trên tất cả các khâu.

- Xu hướng quốc tế hoá trong phát triển du lịch là tất yếu khách quan. Các quốc gia, các địa phương có xu hướng giảm thiểu các thủ tục hành chính tạo điều kiện cho du lịch phát triển.

- Tính thời vụ trong du lịch ngày càng được khắc phục.


1.2. Mối quan hệ giữa hội nhập quốc tế và phát triển du lịch‌

1.2.1. Hội nhập quốc tế

Cho đến nay có ba cách tiếp cận tiêu biểu về hội nhập quốc tế. Cách tiếp cận thứ nhất: cho rằng hội nhập là sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình; sản phẩm đó là sự hình thành một nhà nước liên bang kiểu Hoa Kỳ và Thụy Sỹ. Cách tiếp cận thứ hai cho rằng hội nhập là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu thương mại, thông tin, du lịch, di trú… từ đó hình thành dần các cộng đồng (vừa là quá trình vừa là sản phẩm). Cách tiếp cận thứ ba xem xét dưới góc độ là hiện tượng các nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế mỗi nước và mục tiêu theo đuổi.

Cách tiếp cận hội nhập ở Việt Nam

Ở Việt Nam, thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế.

Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên đều chưa đầy đủ và thiếu chính xác.

Vậy “hội nhập quốc tế” là gì?


Từ cách tiếp cận là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia.

Nội hàm của hội nhập quốc tế

Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết), phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.

* Hội nhập kinh tế quốc tế

Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực và toàn cầu.

Có thể nói, ngày nay xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Xu thế này khiến cho những rào cản kinh tế ngăn cách giữa các quốc gia dần dần được dỡ bỏ, một thị trường toàn cầu với nguyên tắc luật lệ thống nhất đang được hình thành cùng với nó là sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa học công nghệ càng làm tăng thêm độ “nóng bỏng” cho nền kinh tế thế giới. Sự hội tụ đầy đủ các yếu tố như: tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/08/2022