Phân Biệt Du Lịch Nông Thôn Với Du Lịch Sinh Thái Và Du Lịch Nông Nghiệp

nông thôn là cơ hội mở rộng kinh doanh ở khu vực nông thôn đó thông qua du lịch. Mặt khác, một khi du lịch phát triển thành công tại địa phương thì cũng có thể phát sinh các vấn đề thay đổi về mặt xã hội và môi trường ở địa phương đó. Vì thế, cần phải cân nhắc từ phương diện xã hội và môi trường khi phát triển du lịch nông thôn. Có thể tóm tắt về khái niệm du lịch nông thôn như sau:

■ Tất cả các yếu tố nông thôn (đời sống, nghề truyền thống, cảnh quan v.v) đều có thể trở thành tài nguyên du lịch có sức hấp dẫn du khách

■ Là hướng sinh kế mới cho vùng nông thôn

■ Có thể tạo công ăn việc làm mới cho phụ nữ và những người trẻ khác

■ Có thể phát triển bằng cách kết hợp hài hòa tài nguyên khu vực nông thôn (nông nghiệp và nghề truyền thống, di sản văn hóa v.v) với du lịch

■ Nhờ có sự kết hợp như thế mà có hướng kế thừa nghề truyền thống cũng như các di sản văn hóa

■ Được quản lý, khai thác và thực hiện chủ yếu bởi người dân địa phương


Sơ đồ : Biểu đồ khái niệm du lịch nông thôn


Cung cấp dịch vụ giao lưu

Tạo ra hướng kinh doanh mới cho nông thôn Tạo ra việc làm

Tạo sinh khí cho cộng đồng

Trải nghiệm giao lưu

CHỦ

Cộng đồng Tài nguyên thiên

nhiên

Tài nguyên nhân văn

Chương trình du lịch nông thôn

Trải nghiệm đời sống, nghề truyền

thống, nông nghiệp, bán sản vật

KHÁCH


Du khách

Bảo tồn tài nguyên địa phương

(văn hóa, thiên nhiên) Kế thừa nghề truyền thống

* Sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn


Khái niệm du lịch nông thôn (DLNT) đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành đường sắt ở Châu Âu [22]. Tuy nhiên, mãi đến những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới được xem là một loại hình du lịch và được phổ biến ở hầu hết các quốc gia ở Châu Âu như Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thuỵ Điển… [22]. Lúc bấy giờ khái niệm du lịch nông thôn được quan niệm tương đồng với các loại hình du lịch nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở nông thôn… Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia đang phát triển và quốc gia phát triển là ở chỗ: Tại các quốc gia đang phát triển, người ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hoá thu nhập từ nông nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc, văn hoá truyền thống và bảo vệ môi trường. Vì vậy du lịch nông thôn ở các nước này phát triển theo chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại.

Do những điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, nên hình thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh thổ. Chẳng hạn, ở Ô-xtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu tại các trang trại lớn [22]; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn [22]; ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại nhỏ [22]; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm sở thích của cộng đồng [22]; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng [22]. Phát triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường; giảm đói nghèo thông qua phát triển kinh tế nông thôn, phát triển ngành, nghề; giúp phát triển du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và góp phần tiêu thụ các sản phẩm địa phương .

1.1.2. Đặc điểm của du lịch nông thôn

Du lịch nông thôn có các đặc điểm căn bản sau:

Nền tảng của du lịch nông thôn là nông nghiệp. Với hơn 80% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông, có các sản vật phong phú như lúa gạo, khoai, sắn, nho, thanh long, sầu riêng, … Việt Nam có điều kiện rất tốt để xây dựng và phát triển loại hình du lịch này. Khách tham quan sẽ đến các trang trại hoặc làng bản, cùng sinh hoạt, làm việc với người dân bản địa; có thể mặc áo nông dân, xuống ruộng phát cỏ, cấy lúa hoặc lội đồng bắt cá, tôm cua... Không chỉ khách quốc tế mới là đối tượng của loại hình du lịch này mà ngay cả người dân trong nước cũng có thể tham gia, tìm hiểu. Những bài học góp nhặt được trong quá trình trải nghiệm sẽ giúp cho chuyến du lịch trở nên bổ ích hơn và thú vị hơn cho du khách và việc đầu tư khai thác loại hình du lịch này có nhiều tiềm năng mang lại hiệu quả cao.

Mô hình du lịch nông thôn có thể thay đổi theo thời gian và không gian cho phù hợp với tình hình. Khi xem xét độ dài thời gian của một chuyến du lịch về vùng nông thôn, phần lớn các câu trả lời của khách đều là 2 đến 3 ngày. Thời điểm tổ chức du lịch của du khách có ảnh hưởng lớn đến kết quả và hiệu quả kinh doanh du lịch mà trong du lịch học người ta gọi là tính thời vụ. Ở du lịch nông thôn, lịch thời vụ còn có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều vì nó liên quan đến thời tiết, khí hậu, mùa màng, hoạt động thường nhật của vùng nông thôn. Du khách đến vùng du lịch nông thôn vào mùa cây trái, mùa lúa chín thì sẽ thấy thú vị hơn những mùa cây ngưng trái hoặc đồng lúa vừa mới gặt xong.

Du lịch nông thôn không cạnh tranh với các loại hình du lịch khác, sự phát triển của các ngành khác là tiền đề cho du lịch phát triển. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trong ngành thì rất lớn: thu nhập bình quân của nông dân vẫn còn rất thấp. Hầu hết nông dân không có đủ việc làm, vì có ít đất đai (trung bình có 0,5 ha/hộ), ruộng đất lại bị chia thành rất nhiều mảnh nhỏ. Cơ khí hóa nông nghiệp phát triển rất chậm. Nhìn chung, thế giới càng công nghiệp hóa càng thừa lao động, bởi vì công nghiệp và dịch vụ sử dụng lao động ít hơn nông nghiệp. Nói cách khác, công nghiệp và dịch vụ không thể “nuốt” hết số lao động dôi dư. Thừa lao động nông nghiệp là một trong các kết quả của quá trình phát triển. Ở nước ta, nông thôn thừa khoảng 50%

lao động, nhưng lại không phải là kết quả của sự phát triển công nghiệp, mà do họ làm nông nghiệp thì không có đất, không làm nông nghiệp thì chẳng biết dùng họ vào việc gì.

Xuất khẩu lao động cũng chỉ là giải pháp tình thế. Hiện giờ Âu châu hạn chế nhận lao động nước ngoài. Trung Cận Đông, Hàn Quốc và Malaysia bình thường vẫn nhận nhiều lao động di cư vì họ đang có nhu cầu phát triển, nhưng nay khủng hoảng, họ cũng gặp khó khăn. Tương tự, có nhiều việc phải làm để cải thiện giống cây trồng, vật nuôi và áp dụng kỹ thuật canh tác hiện đại. Do vậy, nếu so sánh với nông nghiệp của các nước Đông Nam Á khác như Thái Lan và Phi-lip-pin thì nông nghiệp Việt Nam không hiệu quả và không có tính cạnh tranh. Sự tiếp cận của Việt Nam với thương mại thế giới ngày càng sâu rộng làm cho việc khắc phục những thiếu sót này là đòi hỏi rất cấp thiết [22].

Dễ phát sinh những hình thái biến tấu của du lịch nông thôn. Ở Việt Nam du lịch nông thôn với nhiều tên gọi khác nhau. “Du lịch trang trại”,“Du lịch nông trại”, “Du lịch nông nghiệp”, “Du lịch đồng quê”, “Du lịch miệt vườn”, “Du lịch sông nước”, “Du lịch làng bản”, “Du lịch làng nghề”. Mỗi tên gọi đều phản ánh yếu tố cốt l i để tạo ra đặc trưng của từng thể loại du lịch trong loại hình du lịch nông thôn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, DLNT rất dễ bị đi chệch hướng do sự thiếu quan tâm, tìm hiểu rõ về cơ sở lý luận của loại hình du lịch này [22].

Có tính liên ngành và liên vùng cao. Bản chất của Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành liên vùng và xã hội hóa cao. Liên kết chặt chẽ các thành phần liên quan đến hoạt động du lịch (Công ty lữ hành – chính quyền địa phương – người dân – khách du lịch), hợp tác giữa các làng quê để thu hút khách du lịch là góp phần xây dựng nông thôn mới. Chi tiêu du lịch có tác động quan trọng tới toàn bộ nền kinh tế. Giá trị gia tăng tạo ra trong du lịch được phân bổ cho toàn bộ chuỗi cung cấp sản phẩm du lịch. Chất lượng của chuỗi sản phẩm du lịch phụ thuộc vào từng nhà cung cấp.

1.1.3. Phân biệt Du lịch nông thôn với Du lịch sinh thái và du lịch nông nghiệp

Thời gian gần đây, qua thông tin báo đài, các cụm từ “du lịch nông nghiệp” (DLNN), “du lịch nông thôn” (DLNT) được nhắc đến nhiều và dễ khiến người đọc chúng ta hiểu lầm. Để phân biệt được thế nào là du lịch nông nghiệp và thế nào là du lịch nông thôn là điều làm cho nhiều người trong chúng ta không ít băn khoăn. Trước hết, ta cần phải phân tích rõ những điểm khác biệt giữa DLNN và DLNT.

Sau đây là bảng tóm tắt những điểm khác biệt giữa DLNN và DLNT:


Các điểm khác

biệt

Du lịch nông nghiệp

Du lịch nông thôn

Loại hình du lịch

Là một loại hình du lịch

đơn lẻ

Tổng hợp liên kết nhiều loại

hình du lịch ở địa phương


Tài nguyên du lịch


Tài nguyên sản xuất nông nghiệp

Tài nguyên thiên nhiên và nhân văn địa phương và tài nguyên các loại hình du lịch khác ở địa

phương

Chủ thể tham gia

du lịch

Nông dân

Chủ cơ sở và cộng đồng dân cư

Không gian du lịch

Trang trại, đồng ruộng

Tất cả những nơi có tài nguyên

du lịch ở địa phương


Xung đột lợi ích

Có thể gây xung đột lợi ích với cộng đồng

Giải quyết xung đột lợi ích với

cộng đồng. Nhấn mạnh vai trò của chính quyền địa phương

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Phát triển du lịch nông thôn tại Ba Vì – Hà Nội - 3

Nguồn: Bùi Thị Lan Hương – Du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn [10]

Không chỉ có sự nhầm lẫn với DLNN mà DLNT còn có lúc gọi sang là DLST. Du lịch sinh thái và du lịch nông thôn cùng là một hướng để đa dạng hóa hoạt động kinh tế nông thôn, đưa khách về vùng thôn quê, tham quan thắng cảnh và thưởng thức những đặc sắc văn hóa, tiếp xúc với người dân ở vùng đó. Thực ra thì DLNT có trước DLST nhưng lại ít được biết đến hơn. Vì đó chỉ là nguồn thu nhập thêm của các trang trại, còn du lịch sinh thái phát triển mạnh đến mức trở thành một

hiện tượng của ngành du lịch. Vậy ta cần đặt ra câu hỏi: Tại sao DLST lại có thể phát triển mạnh mẽ, đúng hướng mà DLNT chưa làm được?

Nói tới DLST là: “tham quan và du lịch có trách nhiệm với môi trường tại các tự nhiên không bị tàn phá để thưởng thức thiên nhiên và các đặc điểm văn hóa đã tồn tại trong quá khứ hay đang hiện hành, qua đó khuyến khích hoạt động bảo vệ, hạn chế những tác động tiêu cực do khách tham quan gây ra và tạo ra lợi ích cho người dân địa phương tham gia tích cực” [4](Ceballos – Lasairain, 1996, tổ chức bảo vệ thiên nhiên thế giới (IUCN) đưa ra – trang 22).

Trong hội thảo về “Xây dựng chiến lược phát triển Du lịch sinh thái” (9/1999) đưa ra định nghĩa xác thực hơn như sau: “DLST là loại hình đưa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với giáo dục môi trường, có đóng góp nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương” [4] (trang 22).

Du lịch sinh thái ra đời trong bối cảnh hình thành những loại hình du lịch có trách nhiệm với môi trường. Nó đã thu hút sự quan tâm của nhiều tổ chức bảo tồn thiên nhiên và của nhiều quốc gia thế giới. Du lịch sinh thái phát triển mạnh đến mức trở thành một hiện tượng của ngành du lịch. Không dừng lại ở đó, tiếp nối các loại hình du lịch có trách nhiệm với môi trường là các loại hình du lịch có trách nhiệm với cộng đồng ra đời, từ đó chúng ta có các khái niệm du lịch chống đói nghèo, du lịch bản địa, du lịch cộng đồng...

1.1.4. Các nguyên tắc phát triển du lịch nông thôn

Từ những đặc điểm trên, phát triển du lịch nông thôn phải bảo đảm các nguyên tắc sau:

Bảo đảm tính công bằng cho các chủ thể tham gia

Đem lại lợi ích cho người dân địa phương và phát huy nội lực ở từng địa phương.

Bảo tồn, phát huy vốn di sản và bảo vệ môi trường.

Luôn đổi mới và tạo sự khác biệt

Tăng cường mối liên kết theo chiều dọc và chiều ngang để làm phong phú thêm sản phẩm.

Giữ gìn bản sắc, xây dựng hình ảnh đẹp trong lòng du khách [22]

1.1.5. Đặc trưng của du lịch nông thôn

Điều kiện tự nhiên: Các vùng nông thôn còn đậm đà hồn quê, là những nơi có không khí trong lành, cảnh vật thanh bình và không gian thoáng đãng. Du khách đến với các vùng nông thôn nước ta vì vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên và văn hoá nguồn cội không lai tạp. Vẻ đẹp thiên nhiên tự nhiên hoặc vẻ đẹp văn hoá mà bị suy giảm thì khó thu hút được họ.

Điều kiện về môi trường: Tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về việc hạn chế hoặc tuyệt đối không dùng các loại thuốc trừ sâu và phân bón tổng hợp đối với cây trồng cũng như chất phụ gia trong thức ăn dành cho gia súc, gia cầm.

Điều kiện con người: Người dân ở các làng quê hiền lành, cởi mở và hiếu khách.

Điều kiện an ninh: Khách du lịch đặc biệt coi trọng vấn đề an toàn trong quá trình du lịch. Vì vậy những làng quê họ lựa chọn làm điểm đến du lịch của mình phải là vùng có tình hình an ninh trật tự tốt.

Các yếu tố khác: Đến làng quê, du khách không chỉ hoà mình vào cuộc sống của người nông dân mà còn có thể tham gia các lễ hội và tham quan các di tích lịch sử của địa phương vừa là nghỉ dưỡng vừa là khám phá.

1.1.6. Các hình thức du lịch nông thôn

5 hình thức du lịch nông thôn: ( Nguyễn Thị Bích Huyền – Phát triển du lịch nông thôn tại Ninh Bình - Luận văn thạc sĩ Du lịch 2011 – Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn)

Du lịch tự nhiên, mang tính giải trí.

Du lịch văn hoá, quan tâm tới văn hoá, lịch sử và khảo cổ của địa phương.

Du lịch sinh thái quan tâm tới việc bảo vệ nguồn lợi tự nhiên cũng như phúc lợi, giá trị văn hoá của người dân địa phương.

Du lịch làng xã, trong đó du khách chia sẻ với cuộc sống làng xã và dân làng được hưởng các lợi ích kinh tế do các hoạt động du lịch mang lại.

Du lịch nông nghiệp, trong đó khách du lịch tham quan và tham gia vào các hoạt động nông nghiệp truyền thống, không phá hoại, hay làm giảm năng suất cây trồng của địa phương.

1.2. Vài nét về nông thôn Việt Nam

Ở Việt Nam, tính đến năm 2009, có 70,4% dân số sống ở vùng nông thôn, diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 90% diện tích lãnh thổ Việt Nam. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nông thôn ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến toàn xã hội. Người dân Việt Nam dù sống khắp nơi trên thế giới vẫn giữ được nhiều nét đặc biệt của nông thôn Việt Nam.

Nông nghiệp là hoạt động chính của kinh tế nông thôn, chiếm 68% tổng giá trị sản phẩm ở nông thôn. Nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất gạo hiện nay đang đóng góp nhiều cho xuất khẩu. Tuy nhiên thu nhập bình quân của người nông dân vẫn còn rất thấp. Các ngành dịch vụ tương đối yếu ở nông thôn do khó khăn trong vận chuyển và nhu cầu của địa phương thấp.[22]

Làng quê Việt Nam ngày nay tuy đã có nhiều thay đổi nhưng nhiều làng vẫn giữ được những nét truyền thống lâu đời. Nhắc đến làng quê Bắc Bộ là ta nhớ ngay đến hình ảnh của luỹ tre, đình làng, cây đa, cổng làng. Những hình ảnh đó đã in đậm trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam.

Bất kỳ một làng quê nào trên đất nước Việt Nam cũng có một ngôi đình. Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi người dân Việt, là nơi chứng kiến mọi sinh hoạt, lề thói và mọi thay đổi trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ. Kiến trúc đình làng mang đậm dấu ấn văn hoá, độc đáo và tiêu biểu cho kiến trúc điêu khắc Việt truyền thống. Từ xưa đến nay, người dân Việt Nam vẫn thường gọi chung là đình chùa, nhưng trên thực tế, đình và chùa không cùng một ý thức văn hoá. Chùa là nơi thờ Phật, ít nhiều có ảnh hưởng văn hoá Phật giáo đến từ Ấn Độ, Trung Hoa; còn đình là của cộng đồng làng xã Việt Nam, là nơi để thờ Thành Hoàng làng và những người có công với dân, cứu nước, giữ nước hoặc giúp dân nghề nghiệp sinh sống. Đình là biểu hiện sinh hoạt của người Việt Nam, nơi cân bằng phép tắc của cuộc sống cộng đồng, nơi khai diễn những nét tài năng, tư duy của dân làng. Vào những ngày lễ, tết, dân làng lại thắp

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 20/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí