Đánh Giá Chung Về Hoạt Động Mở Rộng Tín Dụng Đối Với Dnv&n Tại Vpbank Chi Nhánh Kinh Đô


động cao hơn. Lãi suất cho vay năm 2011 cũng tăng lên tới 17 – 18%/ năm, thậm chí tới 21%/năm. Diễn biến đó gây bất lợi nhiều mặt cho nền kinh tế, cho các doanh nghiệp và cho chính các NHTM. Trong năm 2011 này, tỷ lệ lãi của chi nhánh Kinh Đô từ cho vay DNV&N là 2,29%. Trong bối cảnh kinh tế đó, chỉ riêng trong năm 2012, NHNN đã thực hiện tới 6 lần điều chỉnh giảm các loại lãi suất điều hành, tiếp đến trong năm 2013 thực hiện 2 đợt điều chỉnh giảm lãi suất. Lãi suất tiền gửi nội tệ kỳ hạn 12 tháng từ mức 14%/năm vào cuối năm 2011 đến đầu năm 2014 đã giảm xuống còn 8%/năm, trần lãi suất cho vay các đối tượng ưu tiên giảm từ 12%/năm xuống còn 8%/năm. Theo diễn biến đó, lãi suất tín dụng ngân hàng trên đà đi xuống, dẫn đến tỷ lệ lãi năm 2012 của chi nhánh có tăng nhưng khá nhẹ. Trong 2 năm 2013 và 2014, tỷ lệ lãi đối với cho vay DNV&N của chi nhánh đạt 3.43% vào năm 2013 và 4,03% năm 2014. Đây chưa phải là một tỷ lệ lợi nhuận quá cao, tuy nhiên sự cải thiện hằng năm của nó đã thể hiện những đóng góp tích cực của hoạt động tín dụng DNV&N đối với sự phát triển của chi nhánh. Điều này đồng nghĩa với việc đòi hỏi chi nhánh phải chú trọng hơn nữa đối với tín dụng DNV&N, không chỉ phấn đấu vì mục tiêu lợi nhuận mà còn phải nâng cao và củng cố chất lượng tín dụng, tạo điều kiện giúp đỡ doanh nghiệp, góp phần vào phát triển kinh tế đất nước.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNV&N TẠI VPBANK CHI NHÁNH KINH ĐÔ

2.3.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, doanh số cho vay DNV&N và dư nợ tín dụng đối với DNV&N tăng liên tục dù cho giai đoạn 2011-2014 nền kinh tế có nhiều biến động, tiềm ẩn đầy rủi ro. Số lượng các DNV&N được chi nhánh tài trợ vốn tăng qua các năm và ngày càng đa dạng trong các ngành nghề khác nhau. Năm 2014 chi nhánh Kinh Đô đã cung ứng tín dụng cho 208 doanh nghiệp


hoạt động trong các lĩnh vực thương mại, sản xuất và dịch vụ tiêu dùng. Điều này cho thấy tín dụng đối với DNV&N vẫn đang được duy trì và chú trọng mở rộng với đa dạng các đối tượng khách hàng vay, giúp phân tán rủi ro cho ngân hàng đồng thời nâng cao thị phần của ngân hàng trên địa bàn. Tiếp thu những mặt tích cực và kinh nghiệm từ các năm trước, chi nhánh đã đề ra các biện pháp để đạt được kết quả tốt trong năm 2015 và hứa hẹn tăng trưởng dư nợ bền vững trong những năm tới.

Thứ hai, thu nhập và lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cho DNV&N của chi nhánh ngày càng tăng lên, hoạt động cho vay đối với DNV&N ngày càng trở thành một trong những nguồn thu quan trọng của VPBank Kinh Đô. Mở rộng tín dụng cho DNV&N cũng đã góp phần tăng thu nhập từ phí dịch vụ đồng thời nâng cao hình ảnh của ngân hàng với nhiều dịch vụ hiện đại, phục vụ nhu cầu đa dạng của khách hàng. Việc cung cấp vốn cho DNV&N được tăng cường chứng tỏ chi nhánh đang đi đúng theo định hướng phát triển của đất nước cũng như những chiến lược mà VPBank đã đề ra.

Thứ ba, tỷ lệ nợ quá hạn được duy trì ở mức có thể chấp nhận khi dư nợ gia tăng, mặc dù nền kinh tế biến động thường xuyên. Trong đó tỷ lệ nợ xấu từ nhóm 3-5 thấp, từ đó việc mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNV&N đã góp phần tích cực vào nâng cao kết quả kinh doanh cho chi nhánh. Đây là một kết quả đáng khích lệ của chi nhánh trong việc duy trì tốt chất lượng tín dụng trong hoạt động cho vay với DNV&N nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Song chi nhánh vẫn cần cố gắng hơn để giảm tỉ lệ này xuống.

Thứ tư, danh mục sản phẩm tín dụng đối với DNV&N khá đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu của khách hàng. Do đặc thù là ngân hàng bán lẻ, phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh và đời sống của doanh nghiệp SME, chi nhánh có các sản phẩm cho vay đa dạng mà DNV&N có thể tiếp cận. Chi

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.


63

Mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng chi nhánh Kinh Đô - 10


nhánh cần hoàn thiện hơn các sản phẩm này trong thời gian tới, giúp DNV&N thực sự tiếp cận dễ dàng các sản phẩm tín dụng này.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân.

2.3.2.1. Hạn chế

Thứ nhất, quy mô tín dụng chưa tương xứng với tiềm năng.

Số lượng DNV&N là khách hàng của chi nhánh vẫn nhỏ so với số DNV&N trên địa bàn chi nhánh hoạt động: Như đã phân tích ở phần trước, cả về tiềm năng vốn của ngân hàng và tiềm năng khách hàng vẫn chưa được chi nhánh khai thác hiệu quả. Số lượng khách hàng năm cao nhất- năm 2014 mới đạt 208 DNV&N. So với gần 1500 DNV&N trên địa bàn chi nhánh hoạt động và khoảng gần 60000 DNV&N trên địa bàn Hà Nội thì đây là một con số nhỏ bé. Hơn nữa, nhiều thành phần kinh tế như: các loại hình công ty mới, công ty liên doanh, doanh nghiệp vốn nước ngoài …chưa được chi nhánh quan tâm đúng mức và tỷ trọng các khách hàng này của chi nhánh rất thấp, điều này dẫn đến quy mô tín dụng của chi nhánh chưa tương xứng với tiềm năng.

Doanh số cho vay và dư nợ tín dụng (bao gồm cả cho vay và bảo lãnh) đối với DNV&N còn thấp nếu xét tương quan trong tổng doanh số và dư nợ tín dụng của chi nhánh : Mặc dù chi nhánh đã chú trọng phát triển cho vay DNV&N nhưng phần lớn dư nợ tín dụng và doanh số cho vay của ngân hàng tập trung vào cho vay cá nhân. Trong điều kiện thắt chặt tiêu dùng hiện nay của người dân thì đầu tư vào các DNV&N sản xuất hàng thiết yếu, doanh nghiệp xuất nhập khẩu có thể là định hướng mới của chi nhánh.

Thứ hai, cơ cấu tín dụng chưa hợp lý.

Xét về cơ cấu tín dụng DNV&N theo thời hạn cho vay: tỉ trọng tín dụng trung và dài hạn đối với DNV&N còn thấp và ngày càng giảm, dư nợ ngắn hạn của chi nhánh chiếm tỉ trọng chủ yếu. Chi nhánh cần mở rộng hơn nữa hoạt động cho vay trung dài hạn, chủ động tìm kiếm các dự án đầu tư cho


DNV&N, tạo điều kiện cho DNV&N có thể hướng phát triển theo chiều sâu, tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường, qua đó nâng cao lợi nhuận cho chi nhánh. Nhiều DNV&N có nhu cầu vay vốn trung dài hạn để đầu tư mở rộng sản xuất, hiện đại hóa công nghệ nhưng không thể tiếp cận nguồn vốn của chi nhánh do yêu cầu khắt khe về tài sản đảm bảo đối với món vay trung dài hạn.

Xét về cơ cấu theo loại tiền tệ: trong tổng dư nợ của chi nhánh thì dư nợ nội tệ chiếm tỷ lệ rất cao, dư nợ ngoại tệ không đáng kể. Vì vậy, để mở rộng tín dụng cho DNV&N, trong thời gian tới chi nhánh cần tìm kiếm khách hàng, tăng dư nợ ngoại tệ. Với chính sách quản lý chặt ngoại tệ của chính phủ hiện nay, để mở rộng tín dụng DNV&N bằng ngoại tệ, đối tượng ngân hàng cần hướng tới là các DNV&N xuất nhập khẩu, sản xuất hàng xuất khẩu, các DN nhập khẩu xăng dầu và nhất là các Doanh nghiệp có nguồn thu ngoại tệ.

2.3.2.2. Nguyên nhân

- Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, hành lang pháp lý cho hoạt động tín dụng chưa đầy đủ, các cơ quan chịu trách nhiệm cấp giấy tờ sở hữu tài sản, bất động sản chưa rõ ràng. Do đó việc thế chấp, xử lý tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn, phức tạp, nhiều khi bị ách tắc do giấy tờ không hợp lệ. Các chính sách vĩ mô của chính phủ thay đổi cũng ảnh hưởng doanh nghiệp, ví dụ như sự thay đổi trong chính sách liên quan đến xuất nhập khẩu, sự thay đổi về hàng rào thuế quan….ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng tới tín dụng cho DN của ngân hàng.

Thứ hai, tình hình kinh tế thế giới và trong nước biến động khiến tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, tác động không nhỏ tới các chỉ số hiệu quả của ngành ngân hàng nói chung và chi nhánh Kinh Đô nói riêng. Sự bất ổn của nền kinh tế với sự biến động hàng


65


ngày của những biến số vĩ mô như lạm phát, tỷ giá, lãi suất…đã “ góp phần” làm hạn chế tín dụng ngân hàng đối với DNV&N.

Thứ ba, sự cạnh tranh của các ngân hàng trong nước và nước ngoài cũng khiến cho các ngân hàng khó có thể nhanh chóng mở rộng tín dụng DNV&N.

Thứ tư, hạn chế lớn nhất của DNV&N khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính là năng lực tài chính. Các DNV&N thường thiếu tài sản thế chấp khi vay vốn. Trong khi hiện nay thủ tục cho vay các DNV&N hầu hết dựa vào tài sản đảm bảo. Phần lớn các DNV&N còn chưa biết cách xây dựng các báo cáo tài chính, sổ sách kế toán không rõ ràng, minh bạch, khó đánh giá đúng năng lực tài chính của doanh nghiệp. Điều này làm cho doanh nghiệp không đáp ứng được các yêu cầu cho vay của ngân hàng.

Thứ năm, loại hình DNV&N còn nhiều rủi ro, tính khả thi của các dự án và phương án sản xuất không cao. Do thiếu thông tin thị trường nên các doanh nghiệp này thường khó nắm bắt các cơ hội đầu tư để xây dựng dự án thuyết phục, không tính toán đầy đủ các chi phí cũng như thời gian của phương án nên khó khăn cho ngân hàng trong công tác thẩm định. Mặt khác với khả năng chuyển đổi linh hoạt các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên doanh nghiệp không xây dựng những chiến lược cụ thể, lâu dài nên rất khó tiếp cận với nguồn vốn trung dài hạn của ngân hàng.

Thứ sáu, trình độ quản lý của DNV&N yếu kém, cách tổ chức quản lý và điều hành chưa chuyên nghiệp có thể dẫn tới thất thoát nguồn vốn. Nhiều DNV&N sử dụng vốn sai mục đích, không phù hợp với hợp đồng tín dụng đã kí hay không trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Bản thân các DNV&N lại thiếu hiểu biết về pháp luật và các thông lệ trong kinh doanh, các hợp đồng kinh tế chưa được tuân thủ nghiêm túc dẫn tới tranh chấp, kiện tụng gây tốn kém và ảnh hưởng tới uy tín của doanh nghiệp.


Thứ bảy, uy tín của doanh nghiệp còn thấp: các DNV&N chủ yếu làm ăn nhỏ lẻ nên khó tạo lòng tin đối với cán bộ tín dụng. Kết hợp với tất cả các yếu tố kể trên thì việc uy tín của doanh nghiệp trên thị trường cũng như uy tín tín dụng thấp là điều dễ hiểu. Chính nguyên nhân này làm cho việc phát triển phương thức vay tín chấp hay thực hiện dịch vụ bảo lãnh đối với DNV&N là vô cùng khó khăn.

- Nguyên nhân chủ quan từ phía chi nhánh.

Thứ nhất, thủ tục cho vay còn cứng nhắc, chưa được linh hoạt nhất là các thủ tục về cầm cố thế chấp. Thời gian xét duyệt quyết định cho vay còn kéo dài làm lỡ kế hoạch, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Quy trình cho vay phức tạp, thủ tục rườm rà, khối lượng tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu vay của DNV&N.

Thứ hai, nguyên tắc cấp tín dụng của ngân hàng còn quá thận trọng, nhất là đối với DNV&N. Đặc biệt yêu cầu về tài sản đảm bảo, tài sản thế chấp chưa linh hoạt.

Khi cho vay, chi nhánh Kinh Đô đòi hỏi doanh nghiệp phải có tài sản đảm bảo như: máy móc, thiết bị, đất đai….nhưng những điều kiện này rất khó khăn với doanh nghiệp, bởi đặc trưng của DNV&N là năng lực tài chính thấp, tài sản đảm bảo có giá trị không cao. Sự thiếu linh hoạt trong việc đưa ra các quyết định tín dụng này dẫn đến việc bỏ qua những cơ hội kinh doanh đối với các doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi, ảnh hưởng đến lợi nhuận và quá trình mở rộng thị phần của chi nhánh. Trong khi đó cho vay đối với DNV&N vẫn phát sinh nợ quá hạn và tài sản đảm bảo khó có thể trở thành nguồn thu nợ thứ hai do tài sản có tính thị trường không cao.

Thứ ba, về công tác thu thập thông tin: cán bộ tín dụng gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin về doanh nghiệp. Các thông tin mà ngân hàng có được chủ yếu lấy từ báo cáo tài chính của doanh nghiệp có độ tin cậy không


67


cao, thông tin chính thống về DNV&N còn hạn chế, gây khó khăn trong việc đánh giá DN khi ra quyết định cho vay.

Thứ tư, đội ngũ cán bộ tín dụng chưa thực sự hiểu biết về DNV&N : cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc khách hàng, là nhân tố chủ đạo trong quyết định cho vay, ngoài kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cần phải có kiến thức trong nhiều lĩnh vực khác cùng khả năng phân tích và tổng hợp rất rộng. Sự thiếu kiến thức về DNV&N cũng là một hạn chế trong việc mở rộng cho vay DNV&N. Ngoài ra là tình trạng quá tải đối với cán bộ tín dụng, một cán bộ tín dụng cần quản lý nhiều khách hàng thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau cùng lúc. Thêm nữa là cán bộ tín dụng chưa chủ động tìm khách hàng đạt yêu cầu mà còn thụ động ngồi chờ khách hàng đến vay vốn.

Thứ năm, ngân hàng chưa chú trọng nâng cao chất lượng các sản phẩm cho vay mới của mình. Mặc dù tại chi nhánh có rất nhiều hình thức để cho các DNV&N vay vốn nhưng thực tế các DNV&N thường chỉ được vay từng lần, hoặc vay theo hạn mức. Các hình thức cho vay khác chiếm tỷ trọng rất ít, cho vay dựa trên tài sản đảm bảo là hàng tồn kho và khoản phải thu chưa được áp dụng trong khi hai khoản mục này ở DNV&N đều sẵn có, điều này cũng ảnh hưởng khả năng mở rộng tín dụng DNV&N của chi nhánh.


KẾT LUẬN CHƯƠNG II

Chương 2 của luận văn đã nghiên cứu thực trạng đồng thời đưa ra những phân tích và đánh giá về hoạt động mở rộng tín dụng đối với DNV&N tại VPBank chi nhánh Kinh Đô , chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm và nêu một số nguyên nhân dẫn tới những hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với DNV&N tại chi nhánh.


Nguyên nhân của các tồn tại này xuất phát từ nhiều phía, tuy nhiên ngân hàng phải là người tiên phong trong việc đổi mới hoạt động tín dụng của mình. Trên cơ sở đó, tại chương 3, luận văn sẽ trình bày một số giải pháp và kiến nghị với mong muốn góp phần vào sự phát triển hoạt động mở rộng tín dụng đối với DNV&N của chi nhánh.


CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG CHI NHÁNH KINH ĐÔ


3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG VIỆT NAM THỊNH VƯỢNG CHI NHÁNH KINH ĐÔ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1.1. Khó khăn của DNV&N trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay

Từ năm 2008 khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra, kinh tế Việt Nam đã gặp những tác động không nhỏ. Năm 2010- 2011 chứng kiến tình trạng lạm phát cao buộc Chính phủ phải áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt để kéo lạm phát xuống. Ngân hàng đẩy lãi suất huy động lên 14% và thả nổi lãi suất cho vay. Cuộc chạy đua lãi suất huy động trong hệ thống ngân


69

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 18/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí