Diện Tích Và Dân Số Các Huyện Thuộc Tỉnh An Giang Các Năm 2009 - 2010


Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc. Địa bàn An Giang ngày nay nằm trên hai hạt Châu Đốc và Long Xuyên. Năm 1899, Pháp lại bỏ hạt để lập tỉnh. Tỉnh An Giang lúc đầu được tách thành hai tỉnh là Châu Đốc và Long Xuyên. Tỉnh Châu Đốc gồm 4 quận: Châu Thành, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn. Tỉnh Long Xuyên gồm 3 quận: Châu Thành, Thốt Nốt, Chợ Mới. Năm 1930, tỉnh Châu Đốc nhận thêm quận Hồng Ngự, tỉnh Long Xuyên thì vẫn như cũ.

Thời kỳ 1945 - 1954

Thời kỳ này, tỉnh An Giang chịu sự phân chia hành chính theo hai phía: Pháp và Cách mạng.

Về phía Pháp, vẫn giữ hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên, nhưng có thêm bớt các quận. Tỉnh Châu Đốc lúc này bao gồm 5 quận: Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự, Tân Châu, Châu Phú. Tỉnh Long Xuyên gồm ba quận là: Chợ Mới, Thốt Nốt và Châu Thành. Năm 1953, tỉnh Long Xuyên có thêm hai quận mới là Núi Sập và Lấp Vò. Trong khi đó, chính quyền Cách mạng muốn tiện việc chỉ đạo kháng chiến nên phân tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc thành hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Tỉnh Long Châu Tiền gồm 5 quận: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Tỉnh Long Châu Hậu gồm 6 quận: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành. Đến năm 1949, chính quyền Cách mạng cắt quận Thốt Nốt nhập vào tỉnh Cần Thơ, quận Lấp Vò nhập vào tỉnh Sa Đéc (nay là Đồng Tháp).

Năm 1950, chính quyền Cách mạng nhập hai tỉnh Long Châu Hậu và Hà Tiên thành tỉnh mới là Long Châu Hà, gồm 8 quận: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Châu Giang, Phú Quốc. Năm 1951, nhập tỉnh Sa Đéc và Long Châu Tiền thành tỉnh mới là Long Châu Sa, gồm 7 huyện là: Châu Thành (của Sa Đéc), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng, Tân Châu vốn là hai quận Hồng Ngự, Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa.


Riêng về phía Pháp thì vẫn giữ nguyên hai tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên như thời điểm 1953. Hai tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Sa của phía Cách mạng tồn tại đến năm 1954.

Thời Việt Nam Cộng hoà

Năm 1955, tỉnh Châu Đốc có 5 quận: Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự với tất cả 70 xã. Tỉnh Long Xuyên có 5 quận: Châu Thành, Chợ Mới, Núi Sập, Thốt Nốt, Lấp Vò, với tổng cộng 47 xã. Ngày 22-10-1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN tuyên bố địa phận Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Theo đó tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên được sáp nhập thành tỉnh An Giang, tỉnh lỵ đặt tại Long Xuyên. Tỉnh An Giang lúc này gồm 8 quận là: Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới, Tân Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn, Núi Sập, với 16 tổng và 96 xã. Ngày 06-08-1957, tách 13 xã của quận Châu Phú để thành lập quận mới An Phú. Ngày 08-09-1964, chính phủ mới của Việt Nam Cộng Hoà ký Sắc lệnh 246/NV, tách tỉnh An Giang thành hai tỉnh Châu Đốc và An Giang. Tỉnh An Giang mới tức phần đất của tỉnh Long Xuyên trước đó.

Về phía chính quyền Cách mạng, năm 1954, cũng lập lại hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Tỉnh Long Xuyên gồm các quận: Châu Thành, Chợ Mới, Lấp Vò, Thốt Nốt, Phong Thạnh Thượng. Tỉnh Châu Đốc gồm các quận: Tân Châu, Hồng Ngự, Tri Tôn, Tịnh Biên, Châu Phú. Năm 1957, hợp nhất hai tỉnh này thành tỉnh An Giang, gồm 9 quận: Chợ Mới, Thốt Nốt, Núi Sập, Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn. Trả Hồng Ngự về tỉnh Kiến Phong và Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc. Năm 1963, giao Thốt Nốt về tỉnh Cần Thơ và nhận Hà Tiên từ tỉnh Kiên Giang. Tháng 8/1971, tỉnh An Giang lại chia thành hai tỉnh là An Giang và Châu Hà.

- Tỉnh An Giang gồm 5 huyện: Châu Phú, Châu Thành X, An Phú, Tân Châu, Phú Tân.

- Tỉnh Châu Hà gồm 6 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Huệ Đức, Hà Tiên, Phú Quốc và Châu Thành A (vốn thuộc Kiên Giang)


Năm 1974, phía Cách mạng lại phân chia địa bàn các tỉnh An Giang, Châu Hà và Kiến Phong thành hai tỉnh mới là Long Châu Tiền và Long Châu Hà.

- Tỉnh Long Châu Tiền gồm 6 huyện: Tân Châu, An Phú, Phú Tân A, Phú Tân B, Hồng Ngự, Tam Nông (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp)

- Tỉnh Long Châu Hà gồm các huyện: Châu Thành X, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Huệ Đức, Châu Thành A, Phú Quốc, Long Xuyên, Châu Đốc.

Từ sau 1975 đến nay

Sau sự kiện 30-04-1975, Việt Nam thống nhất. Ngày 20-12-1975, Bộ Chính trị Cộng sản Việt Nam ra Nghị quyết số 19/NQ - TW thành lập tỉnh An Giang trên cơ sở hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc thời Việt Nam Cộng Hoà, trừ huyện Thốt Nốt. Năm 1976, tỉnh An Giang chính thức có 8 huyện là: Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới, Phú Tân, Châu Phú, Phú Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên cùng với hai thị xã là Long Xuyên và Châu Đốc.

Năm 1977, hai huyện Huệ Đức và Châu Thành hợp nhất thành huyện Châu Thành, đồng thời hợp nhất hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Bảy Núi. Năm 1979, huyện Bảy Núi tách thành huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên, đồng thời tách một phần của huyện Châu Thành để thành lập huyện Thoại Sơn. Tỉnh An Giang lúc này có 8 huyện và 2 thị xã. Năm 1991, huyện Phú Châu tách thành hai huyện Tân Châu và An Phú.

Ngày 12-11-1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 669/TTg về việc xác định ranh giới giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Năm 1996, hoàn tất việc xác định ranh giới giữa An Giang và các tỉnh lân cận. Ngày 01-03-1999, thị xã Long Xuyên được nâng lên thành thành phố Long Xuyên. Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chánh trực thuộc, trong đó có 1 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện với tổng cộng 140 đơn vị cơ sở, trong đó có 11 phường, 11 thị trấn và 118 xã.

2.1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên‌

2.1.2.1. Vị trí địa lý

An Giang là tỉnh nằm trong vùng ĐBSCL. Phía Bắc và Tây Bắc tiếp giáp với Campuchia với đường biên giới dài 104 km, chạy dọc theo kênh Vĩnh Tế. Phía Tây


Nam giáp tỉnh Kiên Giang với đường ranh giới dài 69,789 km. Phía Nam có 44,734 km đất đai tiếp giáp với thành phố Cần Thơ. Phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Đồng tháp, ngăn cách bởi sông Tiền và rạch Cái Tàu Thượng với chiều dài đường ranh giới là 107,6 km.

Bản đồ 2.1: Bản đồ hành chính tỉnh An Giang




Nguồn: UBND tỉnh An Giang

Lãnh thổ An Giang bao gồm hai vùng: dãy cù lao nằm giữa sông Tiền - sông Hậu, bao gồm các huyện: An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Chợ Mới; dãy đất nằm dọc bên hữu ngạn sông Hậu, thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, bao gồm các huyện: Châu Phú, Châu Thành, Tịnh Biên, Tri Tôn, Thoại Sơn, thị xã Châu Đốc và thành phố Long Xuyên. Chiều dài nhất theo hướng Bắc - Nam là 86 km, Đông - Tây là 87 km.

- Điểm cực Bắc: 10057’B, thuộc xã Khánh An, huyện An Phú.


- Điểm cực Nam: 10012’B, thuộc xã Thoại Giang, huyện Thoại Sơn.

- Điểm cực Tây: 104046’Đ, thuộc xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn.

- Điểm cực Đông: 105035’Đ, thuộc xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới.

Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 3.536,67 km2, bằng 1,05% diện tích toàn quốc và bằng 8,7% diện tích toàn vùng ĐBSCL (đứng thứ 4 trong vùng). Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm Thành phố Long Xuyên, 2 thị xã (Châu Đốc, Tân Châu) và 8 huyện là An Phú, Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn, Tịnh Biên; với 120 xã, 20 phường, 16 thị trấn.

Bảng 2.1. Diện tích và dân số các huyện thuộc tỉnh An Giang các năm 2009 - 2010



TÊN HUYỆN

Diện tích (Km2)

Dân số (Nghìn người)

Mật độ dân số (Người/km2)

2009

2010

2009

2010

2009

2010

Tp Long Xuyên

115

115

279,8

279,8

2.424

2.426

Tx. Châu Đốc

105

105

111,9

111,9

1.069

1.063

An Phú

218

226

178,0

179,8

817

794

Tx. Tân Châu

170

177

153,0

172,1

897

974

Phú Tân

328

313

229,3

209,5

699

668

Châu Phú

451

451

245,8

245,7

545

545

Tịnh Biên

356

355

122,0

121,1

343

341

Tri Tôn

600

600

132,6

132,6

221

221

Châu Thành

355

355

170,6

170,6

480

480

Chợ Mới

370

369

345,3

345,3

934

935

Thoại Sơn

469

469

181,0

181,0

386

386

Tổng

3.538

3.535

2.149,3

2.149,4

608

608

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Phát triển du lịch mùa nước nổi ở tỉnh An Giang - 5

Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2010

Vị trí địa lý là một trong những lợi thế quan trọng để An Giang phát triển thương mại và các ngành dịch vụ, du lịch.

Nằm trong vùng Kinh tế trọng điểm vùng ĐBSCL, liền kề với trung tâm kinh tế lớn của vùng là Thành phố Cần Thơ, An Giang có cơ hội tạo lập các quan hệ kinh tế thương mại với các khu vực thị trường năng động, được tác động lôi kéo và tiếp thu ảnh hưởng lan tỏa từ sức phát triển của các địa phương liền kề trong vùng.

Với tuyến biên giới dài gần 104 km với hệ thống cửa khẩu (trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế, 1 cửa khẩu quốc gia), Khu kinh tế cửa khẩu An Giang - một trong


các Khu kinh tế trọng điểm quốc gia - là những lợi thế đặc biệt để An Giang trở thành cầu nối trung chuyển hàng hoá giữa thị trường trong nước với thị trường Campuchia và các nước ASEAN. Đây là điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các hệ thống phân phối hàng hóa không chỉ cho các sản phẩm của An Giang mà còn cho hàng hóa của các địa phương trong nước, mà trước hết là các địa phương thuộc vùng ĐBSCL, vùng Đông Nam bộ với thị trường Campuchia và các nước khác.

Hoạt động du lịch ngày càng đa dạng với sự hợp tác với các tỉnh lân cận như thành phố Cần Thơ, Đồng Tháp, Kiên Giang,…tạo nên một sự nối kết trong các hoạt động của ngành du lịch được thuận lợi và phát triển hơn.

2.1.2.2. Khái quát về tự nhiên

Địa hình:

An Giang có 2 dạng địa hình chính là đồng bằng và đồi núi.

Vùng đồng bằng do phù sa sông Mê Kông trầm tích tạo nên, bao gồm đồng bằng phù sa khá bằng phẳng, có độ nghiêng nhỏ và độ cao tương đối thấp; đồng bằng ven núi có nhiều bậc thang ở những độ cao khác nhau. Đất đai vùng đồng bằng An Giang rất màu mỡ, phù hợp cho phát triển nông nghiệp.

Vùng đồi núi chia thành hai dạng chính: Dạng núi cao, có dốc lớn trên 25° và dạng núi thấp thoải, độ dốc nhỏ dưới 15°. Vùng đồi núi phân bố theo vành đai cánh cung, bao trùm lên gần hết diện tích 2 huyện Tịnh Biên và Tri Tôn, nhìn chung không thuận lợi cho phát triển sản xuất nhưng có tiềm năng về khoáng sản, có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích văn hóa lịch sử, phù hợp cho phát triển du lịch.

Nằm giữa hai con sông lớn là Sông Tiền, Sông Hậu và hệ thống kênh rạch chằng chịt không chỉ cung cấp phù sa và các nguồn lợi thủy sản mà còn tạo thành những tuyến giao thông đường thuỷ quan trọng nối liền các địa bàn trong tỉnh với các tỉnh vùng ĐBSCL, với các nước Campuchia, Lào, Thái Lan và khu vực Biển Đông, rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hoá đường dài, cho phép tiết kiệm chí phí lưu thông.


Khí hậu:

Tỉnh An Giang nằm trong khu vực mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nền nhiệt độ cao, ổn định, lượng ánh sáng và mưa, ẩm dồi dào,… Có hai mùa rõ rệt trong năm: mùa khô và mùa mưa. Chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc, do năm sâu trong đất liền nên ít bị ảnh hưởng của gió bão. Tuy nhiên, lượng mưa trong năm lớn, tập trung vào mùa mưa (chiếm 90% tổng lượng mưa trong năm) lại trùng vào mùa nước lũ của sông Mê Kông dồn về hạ lưu nên thường gây ra tình trạng úng tổ hợp với ngập lụt. Hiện tượng này xảy ra theo chu kỳ hàng năm, một mặt, gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống dân cư, mặt khác lại tạo nên các nguồn lợi đặc trưng của mùa nước nổi, có khả năng khai thác để phát triển thương mại – du lịch – dịch vụ.

Đất:

Tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh năm 2010 là 353.667 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 84,1%, đất phi nông nghiệp chiếm 15,4%, đất chưa sử dụng chiếm 0,5%. Tỷ trọng đất nông nghiệp khá lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên nhưng hệ số diện tích đất nông nghiệp bình quân đầu người của An Giang ở mức thấp nhất vùng ĐBSCL (0,14ha), trên 70% diện tích đất là đất phù sa hoặc đất có nguồn gốc phù sa do được sông ngòi bồi đắp hàng năm, địa hình tương đối bằng phẳng thích nghi với nhiều loại cây trồng đặc biệt là cây lúa và hoa màu.

Nguồn nước:

An Giang có hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc là một lợi thế lớn về nguồn nước ngọt dồi dào, cung cấp trực tiếp cho các hoạt động sản xuất và đời sống dân cư. Ngoài ra, còn có nguồn nước ngầm với chất lượng tốt và trữ lượng lớn, phục vụ cho phát triển công nghiệp và khu đô thị. Nguồn nước khoáng có chất lượng tại huyện Tri Tôn cũng có thể khai thác và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt vào mùa nước nổi, với diện tích mặt nước lớn có thể khai thác nuôi thủy sản, trồng các loại thực vật đặc trưng trong mùa nước nổi.

Sinh vật:

An Giang có nguồn tài nguyên thực vật và động vật thuộc loại phong phú và đa dạng.


Thực vật: Trong các nguồn tài nguyên thực vật, cây lúa là thế mạnh được ưu tiên phát triển hàng đầu, là nguồn sống của phần lớn người dân trong tỉnh. Đặc biệt là những giống lúa cao sản ngắn ngày có chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Gần đây, nhiều cây trồng khác như khoai mỳ, bắp lai, bắp non, đậu nành rau, nhiều loại rau màu, cây thực phẩm, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả cũng được chú trọng phát triển phục vụ xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm của nhân dân. Bên cạnh đó, An Giang còn có các loại thực vật làm vật liệu xây dựng, sản xuất đồ mộc dân dụng, nguyên liệu phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp và nhiều loài cây, cỏ là nguồn dược liệu để phòng trị bệnh, tập trung phần lớn ở vùng đồi núi.

Động vật: ở An Giang chủ yếu là nuôi cá, tôm, vịt, gà, bò, heo, …Gần đây phát triển thêm ếch, lươn, cá sấu, rắn, ba ba... Thủy sản được xác định là thế mạnh ở An Giang, nên nghề nuôi cá bè, nuôi cá hầm và nuôi cá trong chân ruộng lúa, trong ao vườn đã và đang phát triển với các giống cá nước ngọt. Các loài thủy sản mặc dù có trữ lượng còn hạn chế nhưng lại khá đa dạng về chủng loại, cộng với lợi thế diện tích mặt nước lớn của tỉnh, nên có thể khai thác được quanh năm (trừ các mùa bão, lũ…).

Nguồn tài nguyên, sản vật phong phú, dồi dào tạo nguồn cung có quy mô lớn cho hoạt động thương mại, đặc biệt cho xuất khẩu. Với sản lượng lúa hàng năm khoảng 3,6 triệu tấn (năm 2010) - xuất khẩu trên 500 nghìn tấn, sản lượng thủy sản hơn 315 nghìn tấn (năm 2010) - xuất khẩu 150 nghìn tấn, An Giang là một trong các địa phương đứng đầu cả nước về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo và thủy sản.

2.1.3. Khái quát về kinh tế - xã hội‌

2.1.3.1. Về xã hội

Tổng số dân của tỉnh An Giang năm 2010 là 2.149.457 người. Như vậy, An Giang là tỉnh đông dân nhất Vùng ĐBSCL và đứng thứ 6 trong số những tỉnh đông dân nhất của nước ta. Số người sống ở khu vực thành thị năm 2010 là 640.431 người, chiếm 29,8% và ở khu vực nông thôn là 1.509.206 người, chiếm 70,2% tổng dân số.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 03/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí