định. Muốn chất lượng phát huy thì nó phải có sự bố trí, sắp xếp hợp lý, tức là cơ cấu tỉ lệ hợp lý, đảm bảo sự phát triển của Trường cả trước mắt và lâu dài. Do đó, yêu cầu chung về phát triển ĐNGV phải là đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và hợp lý về cơ cấu.
1.3.3.1. Tiêu chí về số lượng đội ngũ giảng viên
Đánh giá số lượng Đội ngũ giảng viên về quy mô
Mục tiêu đánh giá: So sánh đội ngũ người lao động của một tổ chức hiện có với đội ngũ người lao động của một tổ chức cần thiết (nhu cầu) để hoàn thành công việc thực tế theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức do pháp luật quy định.
Căn cứ để đánh giá chất lượng giảng viên theo quy mô, bao gồm:
+ Quy mô ĐNGV hiện có căn cứ vào Báo cáo tình hình nhân lực của tổ chức nhân sự ở thời điểm đánh giá.
Quy mô ĐNGV cần thiết, căn cứ vào các tài liệu liên quan quy định về:
Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức theo quy định của Pháp luật; mô hình tổ chức bộ máy theo chiến lược phát triển tổ chức trong từng giai đoạn cụ thể liên quan đến thời điểm đánh giá; các tài liệu nghiên cứu phát triển tổ chức; các chính sách phát triển nhân lực của tổ chức.
Đánh giá số lượng Đội ngũ giảng viên theo tỷ lệ sinh viên/giảng viên theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển đội ngũ giảng viên Trường đại học Tài chính – Ngân hàng Hà Nội - 2
- Đặc Điểm Và Vai Trò Của Các Trường Đại Học Ngoài Công Lập
- Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trong Các Trường Đại Học Ngoài Công Lập
- Phân Tích Và Đánh Giá Thực Trạng Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Của Trường Đại Học Tài Chính
- Kết Quả Hoạt Động Của Trường Đại Học Tài Chính – Ngân Hàng Hà Nội
- Tỷ Lệ Giảng Viên Theo Độ Tuổi Của Trường Đh Tài Chính – Ngân Hàng Hà Nội Năm 2020
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Số lượng giảng viên của Trường Đại học phải theo quy định của Bộ GD&ĐT về tỉ lệ sinh viên/giảng viên. Có 2 loại hình giảng viên là giảng viên cơ hữu (viên chức được tuyển dụng, sử dụng và quản lý theo quy định của pháp luật về viên chức) và giảng viên thỉnh giảng (phải có trình độ từ thạc sĩ hoặc tương đương trở lên, có ký hợp đồng thỉnh giảng theo quy định về chế độ giảng viên thỉnh giảng trong các cơ sở giáo dục và các quy định hiện hành liên quan khác, được cơ sở giáo dục trả lương, thù lao theo hợp đồng thỉnh giảng).
1.3.3.2. Tiêu chí về chất lượng đội ngũ giảng viên
Đánh giá chất lượng giảng viên theo phẩm chất chính trị
Người giảng viên có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và thái độ nghề nghiệp đúng đắn là tiền đề cần thiết để phát triển ĐNGV; ĐNGV phải được phát triển dựa trên nền tảng của những chuẩn mực về phẩm chất nhà giáo như vậy thì mới đảm bảo sự phát triển bền vững.
Căn cứ đánh giá:
+ Thái độ đối với nghề dạy học.
+ Yếu tố tác động đến lòng yêu nghề của giảng viên.
Đánh giá chất lượng giảng viên theo trình độ chuyên môn
Phương pháp đánh giá: So sánh tỷ trọng giảng viên của một tổ chức theo trình độ được đào tạo thực tế hiện có với chuẩn về cơ cấu giảng viên theo trình độ được đào tạo và đưa ra nhận xét.
Căn cứ đánh giá:
+ Cơ cấu đội ngũ người lao động của một tổ chức theo trình độ được đào tạo hiện có theo số liệu của tổ chức tại thời điểm đánh giá.
+ Cơ cấu chuẩn theo trình độ được đào tạo được xác định theo yêu cầu công việc của từng loại tổ chức cụ thể được đánh giá.
Đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên theo năng lực nghiên cứu khoa học
Giảng viên thực hiện thành công đề tài, dự án và hướng dẫn NCKH; chuyển giao kết quả nghiên cứu trong đào tạo, bồi dưỡng giảng viên; đăng tải được các kết quả nghiên cứu, xuất bản được nguồn học liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng.
Căn cứ đánh giá:
+ Thực hiện đề tài, dự án: Thực hiện thành công các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học gắn với đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
+ Công bố kết quả nghiên cứu và xuất bản học liệu: Công bố kết quả nghiên cứu và xuất bản học liệu phục vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
+ Hướng dẫn nghiên cứu khoa học: Hướng dẫn người học, đồng nghiệp thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học.
1.3.3.3. Tiêu chí cơ cấu đội ngũ giảng viên
Cơ cấu ĐNGV với ý nghĩa là sự sắp xếp, phân bố ngành nghề, con người, độ tuổi đảm bảo tỉ lệ hợp lý, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển cơ sở giáo dục đại học.
Cơ cấu đội ngũ giảng viên theo ngành nghề
Muốn có cán bộ cho các ngành kinh tế thì trước hết phải có giáo dục, phải đào tạo người thầy về ngành nghề đó. Đào tạo nhà giáo về ngành nghề gì phải phù hợp với kế hoạch kinh tế. Nhu cầu đất nước, xã hội cần gì thì phải có giáo viên về ngành nghề đó. Phải có giáo viên trước để đào tạo các ngành nghề cho xã hội, đáp ứng nhu cầu xã hội.
Cơ cấu đội ngũ giảng viên theo giới tính
Cơ cấu ĐNGV phải đảm bảo sự bình đẳng nam nữ. Ngành giáo dục phải cố gắng để phụ nữ tham gia trong đội ngũ nhiều hơn nữa. Vai trò của phụ nữ rất quan trọng, không chỉ trong lĩnh vực giáo dục mà ở trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có những lĩnh vực phụ nữ còn làm tốt hơn nam giới.
Cơ cấu đội ngũ giảng viên theo độ tuổi
Cơ cấu ĐNGV phải đảm bảo sự cân đối giữa các thế hệ độ tuổi trong Nhà trường, tránh sự thiếu hụt về ĐNGV khi các thế hệ cũ qua đi mà chưa có ĐNGV trẻ kế cận. Trong khi đó cần có một khoảng thời gian nhất định để chuyển giao giữa các thế hệ giảng viên.
1.3.4. Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trong các Trường đại học ngoài công lập
1.3.4.1. Xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ giảng viên
Xây dựng quy hoạch là công việc đầu tiên nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển ĐNGV nói chung, ĐNGV các Trường ĐH NCL nói riêng. Nếu làm tốt công tác quy hoạch sẽ bảo đảm đủ về số lượng, cơ cấu ĐNGV ĐH cho từng ngành đào tạo. Để việc xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL có cơ sở khoa học, các Trường cần dựa trên nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục trong phạm vi cả nước cũng như từng địa phương; tỷ lệ GV/SV; trình độ đào tạo của giảng viên. Bên cạnh đó, việc xây dựng quy hoạch
phát triển ĐNGV phải đảm bảo những đặc trưng của đội ngũ về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Quy hoạch phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL bao gồm các nội dung sau cụ thể đây:
Thứ nhất, Quy hoạch về số lượng và cơ cấu ĐNGV các Trường ĐH NCL: trên cơ sở chiến lược, kế hoạch phát triển của hệ thống các Trường Đại học và tình hình phát triển kinh tế – xã hội cần dự báo được số lượng NNL cần thiết theo cơ cấu hợp lý. Cơ cấu ĐNGV các Trường ĐH NCL hợp lý là cơ cấu phù hợp với cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực đào tạo của các Trường ĐH NCL. Điều này có thể nhận biết ở việc đưa ra định mức sử dụng lao động ở ngành, mỗi lĩnh vực chuyên môn đào tạo.
Thứ hai, Quy hoạch về chất lượng ĐNGV các Trường ĐH NCL: Căn cứ định hướng và mục tiêu chiến lược trong phát triển của các Trường ĐH NCL, hoạch định chất lượng ĐNGV các Trường ĐH NCL cần đưa ra được yêu cầu về chất lượng ĐNGV trong giai đoạn thực hiện. Các yêu cầu này thể hiện ở số lượng lao động có năng lực cần thiết nhằm đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ của từng vị trí công tác, từng chuyên môn giảng dạy. Đây là một nội dung đặc trưng của quy hoạch phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL về chất lượng so với quy hoạch NNL thường chỉ quan tâm tới số lượng lao động.
Thông qua hai nội dung trên, công tác qui hoạch dự báo được yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng, tức số lao động đủ năng lực cần thiết của ĐNGV các Trường ĐH NCL phục vụ yêu cầu phát triển của từ Trường. So sánh các yêu cầu trên với kết quả đánh giá ĐNGV các Trường ĐH NCL hiện có sẽ xây dựng được quy hoạch tổng thể phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL trong thời kỳ, từ đó cũng đưa ra được kế hoạch phát triển ĐNGV dài hạn và hàng năm của các Trường ĐH NCL.
Hoạch định phương hướng phát triển, xây dựng chiến lược, các cơ chế và chính sách để quản lý và triển khai phát triển ĐNGV của từng Trường tham gia hệ thống các Trường ĐH NCL. Đây cũng là một nội dung quan trọng của công tác quy hoạch phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL.
Yêu cầu đặt ra đối với phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL là chiến lược phát triển ĐNGV phải được tích hợp với chiến lược phát triển của ngành giáo dục - đào tạo trong hội nhập quốc tế. Do vậy, hoạch định phương hướng, chiến lược phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL được dựa trên kết quả dự báo về số lượng, cơ cấu và yêu cầu về chất lượng NNL trong thời kỳ hoạch định. Đồng thời, căn cứ vào kết quả phân tích thực trạng và phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển ĐNGV các Trường đại học của ngành, công tác quy hoạch cần đưa ra các cơ chế, chính sách và giải pháp phát triển ĐNGV các Trường đại học.
1.3.4.2. Tuyển dụng và sử dụng đội ngũ giảng viên
Trong mỗi Trường ĐH NCL, công tác tuyển dụng NNL có ý nghĩa rất to lớn. Khi mỗi Trường ĐH NCL nhận được một NNL xứng đáng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ giảng dạy và NCKH sẽ góp phần quyết định vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, uy tín của Nhà trường cũng như cho “ra lò” những sản phẩm tốt, đáp ứng được đòi hỏi của thị Trường lao động. Mọi quá trình tuyển dụng phải có gắn với đòi hỏi thực tế, gắn với yêu cầu của công việc kể cả về số lượng và chất lượng con người. Nếu tuyển dụng theo cảm tình, cơ chế thân quen hay bị một sức ép nào đó sẽ gây ra những hậu quả, nghiêm trọng cả về kinh tế và xã hội, là gánh nặng cho đơn vị và sớm hay muộn sẽ phá vỡ cơ cấu nhân lực của từng Trường cũng như toàn hệ thống giáo dục. Người được tuyển dụng phải thoả mãn các yêu cầu chung của ngành giáo dục, đào tạo như đã phân tích trên là phải có đạo đức và phẩm chất chính trị – Kiến thức – Kỹ năng. Ngoài những yếu tố trên ĐNGV các Trường ĐH NCL còn phải có đủ sức khoẻ, khả năng làm việc lâu dài, quan trọng nhất là lòng trung thành và sự gắn bó với công việc.
Tuyển dụng là để thường xuyên bổ sung ĐNGV. Còn sử dụng là để phát huy vai trò của ĐNGV. Giữa tuyển dụng và sử dụng ĐNGV ĐH có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuyển dụng tốt mới chọn được những giảng viên giỏi, còn sử dụng tốt mới tạo điều kiện cho giảng viên được tuyển dụng phát huy hết phẩm chất và năng lực của mình. Vì thế, các Trường ĐH NCL cần xây dựng phương thức tuyển dụng giảng viên theo hướng khách quan, công bằng và có yếu tố cạnh tranh.
Ngoài ra, cần hoàn thiện và thực hiện cơ chế hợp đồng dài hạn; bảo đảm sự bình đẳng giữa giảng viên cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng.
1.3.4.3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
Trong thực hiện phát triển ĐNGV các Trường ĐH NCL, đào tạo và bồi dưỡng là biện pháp chủ yếu nhất nhằm nâng cao không ngừng năng lực giảng dạy và nghiên cứu khoa học của ĐNGV. Đào tạo, bồi dưỡng vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu đối với giảng viên các Trường ĐH NCL. Nếu không được đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV sẽ nhanh chóng lạc hậu so với sự tiến bộ của khoa học giáo dục. Đặc biệt, khi muốn thực hiện tốt vai trò của mình trong các Trường, giảng viên ĐH NCL càng cần được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, chu đáo, cụ thể:
- Về đào tạo, cần tập trung nâng cao trình độ của GV, đảm bảo cho đội ngũ này được chuẩn hóa (tỷ lệ GV có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ) theo quy định chung của Chính phủ và Bộ GD&ĐT.
- Về bồi dưỡng, cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi, mang tính đặc thù, giúp cho GV ĐH NCL ngày càng đáp ứng tốt hơn vai trò đa dạng và phức hợp của mình trong một môi Trường sư phạm đã được mở rộng.
1.3.4.4. Đãi ngộ đội ngũ giảng viên
Môi Trường làm việc có ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả công việc. Một môi Trường tốt sẽ nuôi dưỡng sự cống hiến, sáng tạo. Trong khi đó, một môi Trường bất lợi sẽ làm mất đi những dự định tốt đẹp của con người. Điều này lại càng có ý nghĩa hơn trong các Trường ĐH NCL. Chính sách đãi ngộ, tôn vinh, tạo môi Trường để ĐNGV các Trường ĐH NCL phát huy tốt vai trò của mình. Trước hết cần xây dựng và ban hành chính sách mới đối với giảng viên, bao gồm tiêu chuẩn, định mức lao động, điều kiện làm việc, nhiệm vụ khoa học và công nghệ, chế độ nghỉ để trao đổi học thuật và cơ chế đánh giá khách quan kết quả công việc.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển đội ngũ giảng viên trong các Trường đại học ngoài công lập
1.4.1. Các yếu tố bên ngoài
1.4.1.1. Những yếu tố thuộc môi Trường vĩ mô
- Chính sách cơ chế quản lý của Nhà nước đối với các Trường ĐH NCL
Trong những năm gần đây Nhà nước đã ưu tiên cho giáo dục, đào tạo nên các Trường đại học có những điều kiện rất thuận lợi để phát triển. Đặc biệt, Nhà nước đã dành sự ưu tiên về ngân sách cho đào tạo, chú trọng đến phân luồng và hướng
nghiệp cho học sinh các Trường phổ thông để tạo điều kiện cho các Trường đại học có nguồn tuyển sinh rất lớn. Những thay đổi trong chính sách vĩ mô của Nhà nước đã tạo nên những bước đột phá mới trong sự nghiệp giáo dục đại học nói chung và mở ra những cơ hội cho sự phát triển các Trường đại học NCL nói riêng. Trong đó, đặc biệt là sự phát triển nhanh của ĐNGV các Trường đại học. Từ đó tạo những điều kiện hết sức thuận lợi cho việc nâng cao chất ĐNGV nhờ sự gia tăng đáng kể số lượng sinh viên hàng năm, nhờ việc gia tăng về cơ cấu và số lượng giảng viên. Quan trọng hơn là ĐNGV trong các Trường đại học đã có động lực để làm việc, sinh viên có cơ hội tìm được việc làm cao hơn.
- Xu hướng phát triển của hội nhập kinh tế quốc tế.
Về mặt kinh tế, Việt Nam hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới. Nhờ đó nền kinh tế đã có những bước phát triển ấn tượng mặc dù còn rất nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, để phát triển các ngành sản xuất có kỹ thuật và nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm, nâng cao năng lực tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam rất cần đến đội ngũ công nhân và nhân viên có trình độ cao đẳng, đại học được đào tạo bài bản có tay nghề tốt, có kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu công việc. Do vậy đòi hỏi các Trường đại học phải nắm bắt nhanh chóng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế để đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo nhằm tạo ra những sinh viên đáp ứng nhu cầu của xã hội. Đây là sức ép rất nặng nề từ môi Trường vĩ mô đối với các nhà quản lý của các Trường và bắt buộc họ phải nâng cao chất lượng ĐNGV để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
- Sự phát triển kinh tế của đất nước và nhu cầu nguồn nhân lực có trình độ.
Sự phát triển của nền kinh tế nước ta những năm qua đặc biệt là sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã và đang đòi hỏi các Trường đại học cung ứng một lực lượng lao động có kỹ năng cao để đáp ứng nhu cầu của hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời mỗi năm. Về cơ bản các Trường này đã đáp ứng nhu cầu về nhân viên kế toán, nhân viên phục vụ trong các khách sạn và các công ty du lịch, nhân viên trong các ngân hàng và trong các ngành dịch vụ khác đang có sự phát
triển vượt trội song cũng từ đó đã bộc lộ yếu kém về chất lượng đào tạo so với nhu cầu xã hội mà bắt buộc các Trường phải nhanh chóng đổi mới. Điều đó đã đặt ra những vấn đề rất lớn cho các Trường là phải không ngừng hoàn thiện và đổi mới về mọi mặt và tập trung nâng cao phát triển ĐNGV, coi đó là yếu tố then chốt để nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội.
1.4.1.2. Sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các Trường Đại học
- Sự hội nhập về ngành giáo dục ngày càng sâu rộng
Hội nhập về giáo dục đã có những bước phát triển mạnh trong những năm qua. Điều đó đã tác động rất lớn đến tư duy của ĐNGV trong các Trường và đòi hỏi họ phải không ngừng nâng cao trình độ, học tập bổ sung kiến thức để nâng cao công tác giảng dạy sao cho chất lượng đào tạo phải được nâng lên những bước rất cơ bản để hội nhập về chất lượng với các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới về trình độ đại học kinh tế hiện nay.
- Cạnh tranh trong lĩnh vực đào tạo trình độ đại học
Trong điều kiện hiện nay khi Nhà nước chủ trương xã hội hóa giáo dục nhằm tăng cường tỷ lệ sinh viên trên 1000 người dân để có thể giảm bớt tỷ lệ này so với các nước trong khu vực thì hàng loạt các Trường đại học tư thục đã đua nhau thành lập, nâng cấp. Với nhu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế xã hội, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam có 60 Trường ĐH NCL được thành lập đào tạo đa dạng hóa các ngành, chuyên ngành. Với tình hình trên đã tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người học, tạo ra môi Trường cạnh tranh trong giáo dục đào tạo đặc biệt sự cạnh tranh giữa các Trường đại học nói chung và đối với các Trường ĐH NCL nói riêng ngày càng gay gắt hơn trong tuyển sinh và trong giữ chân ĐNGV giỏi có năng lực. Thực tế đó đã tác động rất lớn đến cơ chế và chính sách đối với ĐNGV đặc biệt là trong các Trường ĐH NCL nhằm duy trì sự trung thành của họ khi mà các chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần còn rất hạn chế như hiện nay.
1.4.2. Các yếu tố bên trong
1.4.2.1. Trình độ và năng lực quản lý của cán bộ quản lý trong Nhà trường
Sự phát triển của Nhà trường phụ thuộc rất lớn vào trình độ và năng lực của cán bộ quản lý. Nếu Nhà trường có đội ngũ cán bộ tốt, có trình độ cao, có năng lực