Một Số Nét Văn Hóa Tiêu Biểu Của Cộng Đồng Dân Tộc Raglai‌


Raglai là một trong năm tộc người thuộc ngữ hệ Malayo – Polinésien (Nam đảo) ở Việt Nam. Tên tộc người này được các tài liệu phiên âm và dùng các ký tự khác nhau như: Raglai, Radlai, Oranglai, Roglai, Rắclây .v.v. Vì là một thành phần dân tộc trong khối các dân tộc Malayo – Polinésien ở Việt Nam nên người Raglai có mối quan hệ gần gũi về ngôn ngữ, văn hóa với các dân tộc trong khối đó, như Chăm, Êđê, Churu... Địa bàn cư trú lại gần gũi, tiếp giáp, có chỗ đan xen nên giữa người Raglai và các dân tộc đó luôn có quan hệ trên nhiều lĩnh vực sinh hoạt kinh tế, văn hóa – xã hội.

Hiện nay, các nhà khoa học vẫn chưa thống nhất nguồn gốc tộc người của các cư dân thuộc nhóm ngữ hệ Malayo – Polinésien ở Việt Nam (Chăm, Raglai, Churu, Êđê, Gia rai). Có hai luận thuyết đáng chú ý. Một luận thuyết cho rằng các tộc người này đều có nguồn gốc hải đảo Đông Nam Á (những giả thuyết này dùng những căn cứ như: hình thuyến trên kagor nhà mồ trong lễ bỏ mả, lễ ăn trâu và một số tư liệu chứng minh họ có nguồn gốc văn hóa biển).

Các nhà khoa học Nga cũng cho rằng các dân tộc Nam đảo di cư từ các đảo vùng biển nam Trung Quốc xuống Đông Nam Á. Luận thuyết thứ hai cho rằng các dân tộc đều di cư theo đường bộ từ nam Trung Quốc, qua Việt Nam, Lào rồi từ đó di cư ra hải đảo. Gần đây, có ý kiến cho rằng, do trước đây các đảo Đông Nam Á đều “dính” với đất liền, các dân tộc Đông Nam Á đều ở đất liền. Qua quá trình tạo sơn, các hải đạo “tách” ra, trôi xa dần đất liền. Một bộ phận dân cư “trôi” theo, trở thành các dân cư hải đảo ngày nay (Phan Quốc Anh, 2007).

Địa bàn rừng núi – nơi người Raglai sinh sống chính là vùng kháng chiến (khu

VI) của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ ở địa bàn cực Nam Trung Bộ. Địa bàn cư trú của tộc người Raglai chủ yếu tập trung ở vùng rừng núi và thung lũng ở độ cao trên dưới 500m so với mặt nước biển. Điều kiện giao thông, đi lại vùng này rất khó khăn nên văn hóa truyền thống của người Raglai chưa được nghiên cứu nhiều. Người Raglai lại chưa có chữ viết nên tư liệu thành văn cổ hầu như không có. Những tài liệu nghiên cứu văn hóa Raglai của các nhà khoa học trong và ngoài nước rất ít, có thể nói là ít nhất trong 5 dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinésien ở Việt Nam. (Phan Quốc Anh, 2012).


Người Raglai theo chế độ mẫu hệ, cho đến nay họ vẫn duy trì tuy đã có sự thay đổi theo môi trường xã hội mới. Con gái cưới chồng về nhà mình với quan niệm “Chặt cây rừng về làm nhà, bắt người ta về làm người nhà mình”. Chàng rể, người chồng trở thành trụ cột trong gia đình nhà vợ nhưng quyền quyết định những công việc lớn lao vẫn thuộc về người vợ và ông cậu bên vợ. Con gái sinh ra mang họ mẹ và luôn giữ mối quan hệ huyết thống theo dòng họ mẹ suốt 7 đời. Quyền thừa kế tài sản chỉ thuộc về con gái, đặc biệt là người con gái út.

Người Raglai có một kho tàng văn chương truyền miệng vô cùng phong phú, trong đó có những thần thoại, sự tích, truyện kể, những thiên akhàt jucar trường ca, sử thi phản ánh thời kỳ lịch sử xa xăm, thời sáng thế, buổi bình minh lịch sử tộc người. Có nền âm nhạc dân gian phong phú, độc đáo. Cổ nhất là đá kêu, những thanh đàn đá tiền sử được dựng thành dàn trên rẫy, thông qua một hệ thống truyền lực tự động bằng mây tre gỗ. Kế đến là chiêng cồng, mã la, được người xưa chế tác bằng thủ công. Đây là báu vật xếp hàng đầu trong báu vật truyền đời của tổ tiên dòng họ.

Dân ca của dân tộc Raglai phong phú về làn điệu, có các làn điệu chính cổ truyền, một số làn điệu đã được cách tân phát triển thành làn điệu mới. Các điệu hò, ru con, ru em, đồng dao, lời văn cầu cúng trong các nghi lễ… Các làn điệu dân ca nhằm chuyển tải tình cảm, giao lưu đối đáp trong lao động sản xuất sinh hoạt thường ngày, trong các lễ hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

Tộc người Raglai là một trong những cư nông nghiệp bản địa ở cực Nam Trung Bộ. Đã từ lâu tộc người Raglai sinh tụ giữa bốn bề rừng núi cheo leo và hiểm trở, dọc dãy Trường Sơn Đông. Họ cho rằng các thế lực siêu nhiên có tác động rất lớn đến cuộc sống của họ, điều đó xuất phát từ nhận thức thế giới tự nhiên còn hạn chế. Họ tin những gì hiện hữu trước mắt của mình đều có linh hồn và tin vào những vị thần. Họ tin rằng có thần Núi, thần Rừng, thần Nước, thần Đất, thần Nhà, thần Sấm, thần Sét,… Với họ, thần Núi và linh hồn người quá cố là hai vị thần quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người. Họ quan niệm, ngọn núi cao nhất trong khu vực cư trú là nơi thần linh ngự trị và cũng là thế giới tổ tiên. Cây cột giữa nhà là cột thông linh giữa Yang với các thành viên trong nhà, là nơi trú ngự của các vị thần.


Phát tiển du lịch văn hóa từ tiềm năng dân tộc ít người tỉnh Ninh Thuận trường hợp dân tộc Raglai ở huyện Bác Ái - 8

Những vị thần này tuy không có một chân dung cụ thể rõ nét nhưng theo quan niệm của con người thì khả năng trừng phạt hay giúp đỡ đối với họ rất lớn.

Dù cận cư và cả xen cư với người Chăm từ trước và người Kinh vài thế kỷ lại đây, người Raglai vẫn kiên trì tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh. “Yang trên cao Yang dưới thấp” là cách nói thể hiện thế giới thần linh siêu hình, siêu nhân hiện diện khắp nơi. Cùng với tín ngưỡng đa thần là ý niệm về sự tái sinh - hóa kiếp, đầu thai liên quan đến mọi hoạt động trong cuộc sống của mỗi con người.

Đời sống tâm linh của người Raglai được phản ánh rõ nét trong nghi lễ nông nghiệp và nghi lễ vòng đời người. Điều đó tác động chi phối phong tục tập quán, những điều kiêng cữ, cấm kị nhất là trong luật tục và chi phối đến mọi hoạt động của con người. Đời sống tâm linh trên cơ sở tín ngưỡng đa thần đã giúp tộc người Raglai dù cùng nguồn gốc và suốt bao thế kỷ cận cư, xen cư với người Chăm, người Kinh vẫn không ảnh hưởng bởi tôn giáo ngoại lai.

2.2.2. Một số nét văn hóa tiêu biểu của cộng đồng dân tộc Raglai‌

Với 85,72% dân số là người Raglai, Bác Ái là nơi có tỉ lệ người Raglai trong dân số cao nhất trong các huyện ở tỉnh Ninh Thuận. Bác Ái là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng người Raglai. Hiện nay, cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái còn lưu giữ những nét văn hóa độc đáo của dân tộc Raglai mà ở những vùng khác đã bị mất hoặc đang bị mai một dần. Có thể nói Bác Ái là nơi còn giữ được những nét đặc trưng nhất, độc đáo nhất về văn hóa của dân tộc Raglai ở Việt Nam. Trong xu hướng phát triển của ngành du lịch hiện nay, đặc biệt là xu hướng phát triển về du lịch văn hóa, những nét độc đáo của văn hóa Raglai rất cần phải khai thác để phát triển du lịch. Những nét độc đáo của văn hóa dân tộc Raglai ở huyện Bác Ái biểu hiện được những khác vọng, ước muốn tâm linh, vừa giản dị vừa thiêng liêng của tộc người Raglai trong quá trình tồn tại và phát triển. Vì thế, nền văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng độc đáo của cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái là nguồn tài nguyên to lớn cho sự phát triển du lịch, tạo sức hấp dẫn, thu hút du khách đến hưởng thụ các giá trị văn hóa của huyện Bác Ái nói riêng và của tỉnh Ninh Thuận nói chung.


* Văn hóa đời sống, phong tục tập quán

Về nhà ở: nhà sàn truyền thống của người Raglai ở Bác Ái được dùng để ở thường có kích thước nhỏ. Chiều rộng từ 3 m đến 4 m, chiều dài khoảng 4,5 m đến 5

m. Chiều cao từ nền đất đến mặt sàn khoảng 2 m và chiều cao từ mặt sàn đến nóc nhà khoảng 2,6 m. Nhà chỉ có một cửa ở chính giữa vách trước. Chiều rộng của cửa khoảng 0,6 m, chiều cao khoảng 1,5 m. Ba vách còn lại đều có cửa sổ hình vuông, kích thước khoảng 40 cm x 40 cm. Phía trước của chính thường có mặt sàn làm sân phơi sản vật ban ngày và là nơi để nghỉ ngơi, hóng mát. Cột và khung sàn nhà được làm bằng các loại gỗ tốt, không bị mối mọt. Họ sử dụng cây lồ ô, nứa hoặc những cây gỗ nhỏ và thẳng để làm rui mè, sàn và vách được làm bằng cây lồ ô lớn đập dẹp, mái lợp bằng tranh. Các loại vật liệu được liên kết với nhau bằng dây rừng như mây, giang v.v… Về tổng thể, toàn bộ ngôi nhà có 7 cột, sắp xếp theo hình lục giác, các cột này chia chia làm 3 dãy bởi 3 thanh dầm sàn dọc có chiều dài bằng nhau. Dãy thứ nhất và dãy thứ 3 có hai cột, dãy thứ hai có 3 cột, trong đó cột giữa cao đến tận nóc, hai cột hai bên cao đến dầm sàn và có tác dụng chống đỡ mặt sàn. Tuy các cột sắp xếp theo hình lục giác nhưng mặt sàn được thiết kế theo hình chữ nhật. Mỗi ngôi nhà gồm có 4 mái. Trong 7 cột có 1 cột chính. Cột chính của nhà sàn được người Raglai coi là cột thông với thần linh, các nghi lễ cúng kính đều được tổ chức xung quanh cây cột chính này. Nhà được chia làm hai khu vực: khu vực phía trên và khu vực phía dưới. Khu vực phía trên được xem là nơi ngự trị của thần linh, thường được dùng để các vật linh thiêng và quý giá như mã la, ché,…Khu vực phía dưới dành cho sinh hoạt hàng ngày. Từ ngoài bước vào, bếp được đặc bên phải vách trước dùng để nấu nướng và giữ lửa. Phía trên bếp là chạn /giàn dùng treo lên kèo nhà để đồ dùng sinh hoạt: rổ, rá, nia, gùi. Xung quanh quanh bếp là nơi để soong, nồi, chén bát. Các vách liếp quanh bếp là nơi treo ná, dao rựa, các ché rượu cần. Giữa sàn nhà nơi ăn uống. Các thành viên trong nhà đều ngủ trên sàn nhà theo thứ tự cha mẹ rồi đến con cái. Nhà sàn là nơi bảo tồn và phát huy sắc thái văn hóa truyền thống Raglai, là nơi tổ chức các lễ hội của cộng đồng và tộc họ, tổ chức uống rượu cần, hát sử thi, kể chuyện cổ, đánh mả la, thổi kèn bầu,…


Hiện nay, tại các thôn ở huyện Bác Ái đã xây dựng nhà sàn văn hóa Raglai dùng để hội họp, sinh hoạt. Chất liệu làm nhà và kiến trúc giống như nhà sàn truyền thống. Trước nhà sàn có sân để sinh hoạt truyền thống. Phần sàn nối rộng trước nhà làm sân khấu biểu diễn văn nghệ. Trước sân nhà có cột cờ và cây nêu truyền thống. Trong nhà sàn có nơi trưng bày những công cụ lao động, nhạc cụ truyền thống và những hiện vật di sản văn hóa, có tủ sách, khu vực đọc sách v.v…Nhà sàn văn hóa là nơi bảo tồn và phát huy sắc thái văn hóa truyền thống Raglai, là nơi tổ chức các lễ hội cộng đồng, tổ chức uống rượu cần, hát sử thi, kể chuyện cổ, nơi sinh hoạt văn nghệ mang tính dân gian như múa truyền thống, đánh mả la, thổi kèn bầu, đánh đàn đá, thi hát đối đáp, hát ru và những loại hình văn nghệ dân gian khác và cũng là nơi để các nghệ nhân cao tuổi truyền dạy văn nghệ dân gian cho lớp trẻ,...

Tập quán và truyền thống sản xuất: Là một dân tộc sống du canh du cư ở miền rừng núi với kinh tế chậm phát triển, chủ yếu là kinh tế tự cung tự cấp, cũng như các dân tộc ít người sinh sống ở vùng cao khác, người Raglai đã hình thành nên cho mình một nền nông nghiệp nương rẫy ở vùng Nam Trung Bộ. Là cư dân sinh sống bằng nông nghiệp ở vùng có đặc điểm địa lý tự nhiên phức tạp như triền núi dốc, sông ngòi ngắn nước chảy xiết vào mùa mưa, thời gian khô hạn trong năm dài và bức xạ Mặt Trời lớn… vì vậy mà tộc người Raglai ở Nam Trung Bộ nói chung và cộng đồng người Raglai ở huyện Bác Ái nói riêng đã chế tác nông cụ, tìm cách ngăn dòng nước và phương pháp tưới tiêu hợp lý, chọn giống cây trồng và thời điểm canh tác … thích nghi, phù hợp với điều kiện tự nhiên để tồn tại và phát triển. Người Raglai quan niệm vạn vật hữu linh nên hoạt động kinh tế của con người không tránh khỏi sự giám sát của thần linh. Chặt một cây rừng, đào một con mương… là đã liên quan đến các vị thần, đến các hồn, vì thế phải có ứng xử là cúng tế nhằm mục đích là để thần linh không trừng phạt mà ban cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi và cuộc sống con người sẽ được ấm no giữa núi rừng. Hiện nay, người Raglai ở huyện Bác Ái vẫn còn lưu giữ những tín ngưỡng, lễ nghi nông nghiệp truyền thống, biểu hiện qua hệ thống nghi lễ cầu mùa, lễ ăn đầu lúa, lễ mừng lúa mới và các phong tục tập quán khác.


Văn hóa ẩm thực: người Raglai ở huyện Bác Ái vốn có một vốn văn hóa ẩm thực truyền thống đặc sắc. Lễ vật cúng tế cũng như các món ăn truyền thống của người Raglai có nhiều nét riêng, chứa đựng những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh của một tộc người sinh sống ở vùng miền núi cực Nam Trung Bộ. Về thức ăn, bữa ăn hàng ngày của đồng bào chủ yếu là những món chế biến từ ngô, bên cạnh còn có canh được chế biến từ các loại rau, bầu, bí, đu đủ, mít hoặc ngọn bầu, ngọn bí, sung và các loại lá cây rừng như lá bép, lá klăn, lá ô chao, lá paranhau, các loại măng, nấm,… do trồng hoặc hái lượm trong rừng. Do địa bàn sinh sống là vùng núi, nguồn thuỷ sản ít nên thịt chiếm vị trí quan trọng trong bữa ăn của người Raglai ở huyện Bác Ái. Thịt thường được nấu chung với canh rau hoặc nướng trên bếp lửa. Món được xem là ngon nhất đối với người Raglai là thịt nướng, kế đó là canh nấu bằng thịt và múi mít non. Gia vị thường có trong các bữa ăn của người Raglai là ớt, lá é và muối. Cách dự trữ thức ăn bằng thịt của người Raglai ở huyện Bác Ái thường là xếp thịt sống trên một cái sàn bằng gỗ rồi treo lên phía trên bếp lửa hoặc sấy, phơi khô rồi gác trên dàn bếp để ăn dần, mỗi bữa ăn lấy ra một lượng thịt vừa đủ dùng. Về đồ uống, rượu cần là đặc sản của người Raglai, họ ủ rượu cần bằng ngô, sắn, lúa với loại men tự chế bằng các loại lá cây, củ cây và trái cây lấy trong rừng. Để được ché rượu cần ngon thì ngoài yếu tố lương thực, men và thời gian cũng đóng vai trò quan trọng cho cái ngon, ngọt chua, đắng; người uống cảm thấy hấp dẫn. Rượu cần là thứ không thể thiếu trong sinh hoạt ẩm thực đời thường cũng như trong lễ hội của người Raglai. Mỗi gia đình người Raglai thường có một hoặc nhiều ché rượu cần. Khi uống rượu cần, có thể cắm vòi uống trực tiếp hoặc hút ra thố, dùng chén múc uống bao nhiêu tùy thích. Trong lễ hội rượu cần thức uống được xếp hàng đầu. Rượu cần được hút ra thố, uống bằng tô, họ mời nhau bưng hai tay, người nhận uống cũng đỡ hai tay. Sau đó người uống mời trở lại cũng động tác trên, từ người này đến người khác. Cuộc uống rượu cần có thể kéo dài thâu đêm cùng với sinh hoạt ca múa nhạc truyền thống.

* Lễ hội

Lễ ăn đầu lúa mới

Cộng đồng người Raglai đã xây dựng cho riêng mình một không gian văn hóa đậm nét riêng biệt với những nghi thức và tập tục đặc trưng, và qua các hoạt động


văn hóa truyền thống này đã phác họa phần nào đời sống tinh thần của người dân Raglai ở huyện Bác Ái. Một trong những hoạt động văn hóa tiêu biểu đó là những nghi thức trong lễ hội ăn đầu lúa mới.

Thời gian lễ hội: Hàng năm, cứ vào khoảng cuối tháng 11 theo âm lịch là người Raglai ở huyện Bác Ái tổ chức làm lễ ăn lúa mới. Lúc này, mùa màng đã thu hoạch xong, lúa, bắp đã về đậu trong nhà (theo cách nói của người Raglai, tức là khi lúa bắp đã được đưa lên nhà sàn kho) nhưng chưa ai được phép lấy ra ăn. Muốn lấy lúa, bắp ra ăn, phải làm lễ cúng ăn đầu lúa mới. Đây cũng là thời gian nông nhàn, người Raglai lên rừng săn bắt hái lượm về làm lễ vật và chuẩn bị bước vào chu kỳ sản xuất mới. Lễ hội ăn lúa mới kéo dài trong hai ngày một đêm và ngày làm lễ do thầy cúng chọn.

Không gian, tính cộng đồng của lễ hội: Vùng đồng bào Raglai ở Bác Ái, vai trò quyết định các việc lớn của cộng đồng là bà trưởng tộc (theo chế độ mẫu hệ), tuy nhiên việc tổ chức nghi thức cúng lễ là đàn ông, phụ nữ chỉ đóng vai trò chỉ đạo và nội trợ. Địa điểm thực hành các nghi lễ cúng thường là tại nhà sàn thiêng của dòng tộc. Đây là nơi chỉ để tế lễ thần linh, không có người ở, nơi cất giữ những vật báu của dòng tộc. Vì vậy lễ ăn lúa mới được tổ chức theo từng dòng tộc ở tất cả các vùng đồng bào Raglai sinh sống với sự tham gia của tất cả già, trẻ, gái, trai. Yếu tố này khẳng định không gian rộng lớn và tính cộng đồng cao của lễ hội.

Về nghi lễ: Người Raglai quan niệm lễ ăn lúa mới là lễ hội đầu năm. Phần lễ gồm có lễ đổ nước vào ché rượu cần, lễ cúng chính, lễ cúng thần lúa bắp. Lễ vật bắt buộc phải có một con gà hay một con anu (dúi) mà người Raglai quan niệm là con vật theo đất, 3 ché rượu cần, tục này đã trở thành thành ngữ: “Rượu cần 3 ché, 1 con thịt”. Ngoài ra còn có các nông sản như cua, cơm, canh, bắp, mì v.v… Các đồ đạc được bày ra trên nhà sàn như chiết đựng y trang, đồ trang sức như xâu chuỗi, cườm, vòng đeo cổ, đeo tay, nhẫn, cà rá, ché, nồi đồng… và các nhạc cụ như mã la, chiêng, trống, đàn chapi, sarakel…để tế thần linh. Là cư dân nông nghiệp Đông Nam Á, tín ngưỡng dân gian của người Raglai là tín ngưỡng đa thần đều cúng hồn lúa, hồn bắp, quan niệm rằng lúa là con gái, bắp là con trai. Người Raglai tin rằng có rất nhiều thần linh ngự ở khắp mọi nơi: thần núi, thần suối, thần sông, thần mặt trời, thần mưa,


thần gió, thần cây cỏ, hồn lúa, hồn bắp… mặc dù các yàng đều vô hình nhưng luôn chi phối cuộc sống hàng ngày của người Raglai, ban cho mùa màng tươi tốt, cho con người khỏe mạnh, không ốm đau bệnh tật. Ông bà tổ tiên tuy đã tụ tập về thế giới bên kia nhưng luôn phù hộ cho con cháu làm ăn. Vì vậy, khi thu hoạch lúa bắp, việc đầu tiên là phải làm lễ cúng tạ ơn thần linh.

Lễ cúng thường được bắt đầu vào khoảng 13 giờ. Lễ thức đầu tiên là lễ đổ nước vào ché rượu cần. Ông thầy cúng ngồi xếp bằng trước bàn lễ phụ ở hướng nam, trên đó đặt ché rượu cần. Khấn xong, ông chủ lễ hút rượu cần mang sang bàn lễ chính ở hướng bắc. Trên cổ ché rượu, người ta quàng một chuỗi vòng cườm, hạt lớn. Trước ché rượu là một mâm lễ, trên đặt một bát lửa than, hai bát nước lã, một mủng gạo đầy. Trên thành mủng gạo cắm một cây nến bằng sáp ong đang cháy. Tiếp theo, ông khấn xin cắt tiết gà. Ông chắp hai tay lên đầu khấn báo, khấn mời yang Ngok, yang Gru (thiên thần) yang Cơk (thiên thần) yang muk kay (nhân thần) về dự lễ ăn lúa mới của gia tộc, mời bề trên chứng giám cho lễ cắt tiết gà, đổ nước vào ché rượu cần. Khấn rằng: “Gà khỏe mạnh, rượu cần tinh khiết không phải là cặn bã... lễ vật này là để nghĩa đền, ơn trả đối với bề trên”.

Sau khi khấn, gà sẽ đem đến trước bàn thờ hướng nam cắt tiết, nước sẽ được đổ vào ché. Khấn xong, hai người trong gia đình đến bên ché rượu, hút rượu cần ra bầu, ra bát, bưng qua bàn lễ hướng bắc.

Sau đó là đến lễ cúng chính. Bàn lễ hướng bắc đặt sát vách. Trên tường, chính giữa bàn lễ, người ta dùng 2 sợi dây cột đầu một đoạn dài khoảng 0,8 mét hoặc đóng dính giăng ngang 1 sợi dây. Trên đó người ta treo một bộ áo, váy, khăn của phụ nữ, ở hai đầu dây được móc vào 2 hạt cườm. Lễ vật trong lễ cúng chính gồm: 1 con gà, 1 ché rượu cần, 5 bát cơm cao ngọn. Trên mỗi bát cơm đều có 1 con cua núi và 1 củ hành để nguyên cả lá. Ngoài ra còn có nhiều chén hạt nổ, gạo, nước lã, trầu cau. Các lễ vật này được sắp thành 3 mâm theo hàng dài: mâm của các yàng, mâm của ông bà, mâm dành cho thổ địa.

Nội dung lời khấn trong lễ này là mời các thần tạo dựng đất trời, mưa gió, cây cối, con người và muôn vật, mời thần linh ông bà tổ tiên, linh hồn những người đã

Xem tất cả 151 trang.

Ngày đăng: 23/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí