Tiềm Năng Và Thực Trạng Phát Triển Du Lịch Văn Hóa Từ Văn Hóa Dân Tộc Raglai Ở Huyện Bác Ái, Tỉnh Ninh Thuận‌‌‌


Đối với hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người, thông tin liên lạc đảm nhiệm việc vận chuyển các tin tức một cách nhanh chóng và kịp thời, góp phần thực hiện các mối giao lưu trong nước và quốc tế. Việc phát triển du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người không thể thiếu được các phương tiện thông tin liên lạc. Nhờ các tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các phương tiện thông tin liên lạc ngày càng phong phú và hiện đại. Các hệ thống thông tin hiện đại cho phép truyền và nhận thông tin, hình ảnh ở bất cứ nơi nào trên Trái Đất. Vì vậy, việc phát triển thông tin liên lạc tại các điểm du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người sẽ giúp cho việc quảng bá những nét văn hóa độc đáo từ cộng đồng dân tộc ít người trên các phương tiện thông tin liên lạc, từ đó sẽ thu hút du khách ở trong và ngoài nước đến tham quan, tìm hiểu.

Trong cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người còn phải đề cập đến hệ thống các công trình cấp điện, nước vì sản phẩm của nó phục vụ trực tiếp cho việc nghỉ ngơi của khách.

Như vậy, có thể nói cơ sở hạ tầng là đòn bẩy để phát triển du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người.

* Cơ sở vật chất – kỹ thuật

Cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra sản phẩm du lịch, cũng như quyết định mức độ khai thác các tìm năng du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu du khách. Chính vì có vai trò quan trọng như vậy nên sự phát triển ngành du lịch nói chung và du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người nói riêng bao giờ cũng gắn liền với xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất – kỹ thuật.

Đối với du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người thì văn hóa của cộng đồng dân tộc ít người là tài nguyên du lịch có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thỏa mãn nhu cầu tìm hiểu của du khách. Muốn khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên này đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống các công trình. Cơ sở vật chất – kỹ thuật du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người bao gồm các phương tiện vật chất tham gia vào việc tạo ra và thực hiện dịch vụ hàng hóa du lịch văn hóa nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của du khách. Sự kết hợp hài hòa giữa tài nguyên du lịch văn hóa của cộng


đồng dân tộc ít người và cơ sở vật chất – kỹ thuật của du lịch văn hóa giúp cho các điểm du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người hoạt động hiệu quả.

1.3.2. Nhóm nhân tố chính trị và chính sách‌

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 151 trang tài liệu này.

* Nhân tố chính trị

Bất cứ một sự xáo động chính trị, xã hội nào dù lớn hay nhỏ đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động du lịch, đặc biệt là hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người. Ổn định và an toàn là yếu tố có ý nghĩa to lớn đối với du khách và cơ quan cung ứng du lịch. Khi có một thông tin bất ổn về chính trị, xã hội xảy ra một địa điểm du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người nào đó thì khó có thể thu hút được du khách tới địa điểm đó. Một khu vực hay một vùng lãnh thổ - nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc ít người có bầu không khí chính trị hòa bình và ổn định kết hợp với các tài nguyên du lịch văn hóa sẵn có từ cộng đồng dân tộc của lãnh thổ đó sẽ tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách khi muốn tìm hiểu về du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người. Tại những địa điểm đó du khách cảm thấy yên ổn, tính mạng được coi trọng và họ có điều kiện đi lại tự do mà không có cảm giác lo sợ, có thể gặp gỡ dân bản xứ, giao thiệp và làm quen với phong tục tập quán địa phương mà không bị cản trở bởi sự phân biệt chủng tộc và tôn giáo. Từ đó thúc đẩy du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người phát triển. Ngược lại, sự phát triển của du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người sẽ gặp khó khăn nếu vùng sinh sống của cộng đồng dân tộc ít người nào đó xảy ra các sự kiện như đảo chính, bất ổn chính trị, nội chiến, khủng bố…làm xấu đi tình hình chính trị, hòa bình và ổn định thì sẽ trực tiếp và gián tiếp làm giảm sức hút du lịch của khu vực đó. Như vậy, nhân tố chính trị là điều kiện rất quan trọng có tác động thúc đẩy hoặc kiềm hãm sự phát triển của du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người.

* Đường lối, chính sách

Đường lối chính sách ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự phát triển du lịch du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người của một khu vực hoặc một đơn vị hành chính – nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc ít người. Những khu vực, địa phương có du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người phát triển là những nơi chính quyền có nhiều chính sách quan tâm đầu tư phát triển du lịch văn hóa dựa trên


tài nguyên du lịch văn hóa của cộng đồng dân tộc ít người. Chính quyền ban hành các văn bản pháp luật, quy phạm hoàn thiện làm hành lang pháp lý cũng như sự điều chỉnh linh hoạt để thích ứng trong những điều kiện, hoàn cảnh mới, đây được xem là nhân tố thúc đẩy du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người phát triển.

Cơ chế chính sách phát triển du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người có tác động đến tất cả các hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người từ việc khai thác, bảo tồn tài nguyên du lịch văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực, các hoạt động xúc tiến phát triển du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người, đầu tư quy hoạch du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người, các hoạt động kinh doanh du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người. Một đất nước, một khu vực có cộng đồng dân tộc ít người với tài nguyên du lịch văn hóa phong phú nếu chính quyền địa phương không yểm trợ cho các hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người thì hoạt động này cũng không thể phát triển được.

1.3.3. Nhóm nhân tố tự nhiên‌

Môi trường tự nhiên có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người nói riêng. Các thành phần của tự nhiên tác động nhiều đến du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người chủ yếu là địa hình, khí hậu, nguồn nước.

* Địa hình

Địa hình có vai trò hết sức quan trọng đối với du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người. Bởi vì bề mặt địa hình là nơi diễn ra các hoạt động của du khách, đồng thời cũng là nơi xây dựng các công trình thuộc cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch văn hóa ở vùng đồng bào dân tộc ít người. Đặc trưng hình thái và trắc lượng hình thái có thể thuận lợi hoặc gây khó khăn cho hoạt động du lịch văn hóa ở cộng đồng dân tộc ít người. Ảnh hưởng của địa hình đến khả năng triển khai các hoạt động xây dựng các công trình du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người được thể hiện qua diện tích mặt bằng xây dựng các công trình phục vụ du lịch và mức độ thuận lợi của địa hình đối với giao thông đến địa bàn du lịch văn hóa ở vùng cộng đồng dân tộc ít người sinh sống. Các yếu trắc lượng hình thái của


địa hình như độ dốc, mức độ chia cắt sâu, chia cắt ngang càng lớn thì càng gây khó khăn cho du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người và ngược lại.

Địa hình miền núi ảnh hưởng lớn đến việc phát triển du lịch văn hóa từ du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người ở Việt Nam bởi vì nhiều các dân tộc ít người ở nước ta sinh sống ở khu vực miền núi. Miền núi ở nước ta có nhiều nơi thuận lợi cho nghỉ ngơi, an dưỡng, tổ chức các hoạt động thể thao và còn là nơi tập trung nhiều loài động thực vật, cùng với quan cảnh địa hình tạo nên tài nguyên tổng hợp có giá trị cho phát triển du lịch. Đó là điều kiện rất thuận lợi để kết hợp giữa tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa để hình thành các tuyến du lịch tham quan tìm hiểu tự nhiên cũng như du lịch văn hóa ở miền núi, góp phần làm đa dạng loại hình và sản phẩm du lịch. Bên cạnh đó, độ dốc lớn cũng như mức độ chia cắt ngang và chia cắt sâu lớn ở khu vực miền núi của nước ta gây trở ngại cho giao thông và xây dựng các công trình du lịch phục vụ du lịch văn hóa ở khu vực miền núi.

* Khí hậu

Khí hậu là thành phần quan trọng của môi trường tự nhiên có tác động đối với hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người. Điều đó được thể hiện ở khả năng thu hút khách thông qua đặc điểm của khí hậu. Thông thường, những nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc ít người có khí hậu điều hòa sẽ hấp dẫn được du khách nhiều hơn những nơi có khí hậu khắc nghiệt.

Điều kiện thời tiết có ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến đi hoặc hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người. Du khách thường mong muốn những ngày nắng đẹp để đi lại, tham quan, mua sắm, quay phim, chụp ảnh kỷ niệm,… ở nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc ít người. Ở mức độ nhất định, cần phải lưu ý tới những hiện tượng thời tiết đặc biệt làm cản trở tới kế hoạch phát triển du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người, ví dụ như những tai biến thiên nhiên (bão, gió mùa, gió bụi, lũ lụt,…).

Du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người cũng có tính mùa vụ do chịu tác động chủ yếu của nhân tố khí hậu. Tác động của khí hậu đối với sức khỏe con người và việc triển khai các hoạt động du lịch văn hóa diễn ra theo chiều hướng và mức độ khác nhau ở những thời điểm trong năm gây nên sự khác biệt về hoạt động du lịch


văn hóa theo mùa, mà trước hết là về số lượng du khách, thời gian lưu lại, kéo theo những thay đổi về công suất sử dụng giường, buồng, doanh thu,… tạo ra mùa vụ trong năm của các hoạt động du lịch văn hóa ở vùng cộng đồng dân tộc ít người sinh sống.

* Tài nguyên nước

Tài nguyên nước phục vụ du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người chủ yếu là nước trên bề mặt. Nước trên bề mặt bao gồm mạng lưới sông ngòi, ao, hồ nước ngọt và nước mặn. Nó có ý nghĩa lớn trong việc cung cấp nước cho các khu, điểm du lịch văn hóa. Nước rất cần thiết cho đời sống và cho các nhu cầu khác của xã hội. Đáp ứng cho những nhu cầu này đòi hỏi phải có nguồn nước ngọt dồi dào. Nguồn nước phục vụ nhu cầu sinh hoạt của du khách trong hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người cũng cần được đánh giá qua hai tiêu chí là vị trí, số lượng và chất lượng nước của cả 2 nguồn nước mặt và nước ngầm. Vị trí của nguồn nước thể hiện khoảng cách từ nguồn nước đến địa bàn hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người, chủ yếu là các điểm lưu trú của du khách. Về chất lượng, nếu nguồn nước bị ô nhiễm thì thành phần của nó bị biến đổi và không phù hợp để sử dụng hằng ngày. Sự biến đổi này bao gồm cả tính chất lý, hóa và sinh học của nước làm cho nước trở thành độc hại, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Ngoài phục vụ nhu cầu sinh hoạt cho hoạt động du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người, các dạng địa hình chứa nước, chủ yếu là nước mặt còn tạo ra những phong cách đẹp. Mặt nước là không gian để có thể xây dựng các công trình dịch vụ du lịch như nhà hàng, khách sạn nổi bến thuyền,… Các khách sạn, nhà hàng nổi là các cơ sở dịch vụ thu hút rất đông du khách nhờ vị trí độc đáo, cảnh quan ngoạn mục và khả năng cơ động của chúng. Đây là điều kiện rất phù hợp để liên kết với các địa điểm du lịch văn hóa từ cộng đồng dân tộc ít người để tạo nên tuyến du lịch hấp dẫn và đa dạng hóa về sản phẩm và loại hình du lịch.


Chương 2 TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TỪ VĂN HÓA DÂN 1


Chương 2. TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HÓA TỪ VĂN HÓA DÂN TỘC RAGLAI Ở HUYỆN BÁC ÁI, TỈNH NINH THUẬN‌‌‌

2.1. Khái quát chung về huyện Bác Ái‌

2.1.1. Vị trí địa lí‌

Huyện Bác Ái nằm phía tây bắc tỉnh Ninh Thuận có diện tích 1027,22 km2; toạ độ địa lí: về vĩ độ từ 110039’11’’B(cực Nam) đến 120010'05''B (cực Bắc), về kinh độ từ 1080 39’54’’Đ (cực Tây) đến 1090 03’46’’Đ (cực Đông). Ranh giới huyện tiếp giáp: phía bắc giáp huyện Khánh Sơn - tỉnh Khánh Hoà, phía nam giáp huyện Ninh Sơn và thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, phía đông giáp huyện Thuận Bắc tỉnh Ninh Thuận và Thành phố Cam Ranh tỉnh Khánh Hoà, phía tây giáp huyện Đơn Dương - tỉnh Lâm Đồng. Huyện có tuyến đường quốc lộ 27 B từ Khánh Hoà đi Lâm Đồng chạy qua, tiếp giáp với thành phố Cam Ranh, cách thành phố Nha Trang 90 km và thành phố Đà Lạt 100 km. Nằm trong tam giác kinh tế phát triển Đà Lạt - Phan Rang - Nha Trang nên khá thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế - xã hội.

2.1.2. Đặc điểm tự nhiên‌

* Địa hình

Địa hình của huyện thấp dần theo hướng tây bắc - đông nam. Có thể chia ra các dạng địa hình chính như sau:

Địa hình tương đối bằng có diện tích chiếm 4,4% diện tích toàn huyện, phân bố ở các xã phía Nam của huyện: Phước Chính, Phước Trung, Phước Đại, Phước Tân.

Địa hình đồi thấp, bằng thoải ít chia cắt có diện tích chiếm 19% diện tích toàn huyện.

Địa hình đồi hoặc núi thấp chiếm 6% diện tích toàn huyện.

Địa hình đồi núi trung bình và cao, gồm những dãy núi có độ cao trên 1.000m, tập trung ở phía bắc và phía tây của huyện, dạng địa hình này có diện tích chiếm 70,6% diện tích toàn huyện.


Tất cả các xã trong huyện Bác Ái đều là xã miền núi. Địa hình rất phức tạp, chủ yếu là đồi núi cao, dốc, mức độ chia cắt lớn; giao thông đi lại khó khăn.

* Khí hậu

Ninh Thuận có đặc điểm khí hậu là nhiệt đới - gió mùa, bán khô hạn. Huyện Bác Ái nằm trên địa hình núi thấp, trung du, là địa hình chuyển tiếp giữa địa hình đồng bằng duyên hải với địa hình núi và cao nguyên nên vùng núi phía tây huyện giáp với Lâm Đồng chịu ảnh hưởng khá sâu sắc bởi khí hậu nhiệt đới ẩm - gió mùa cao nguyên. Đặc điểm khí hậu của huyện Bác Ái có thể phân ra 02 tiểu vùng khí hậu:

Tiểu vùng khí hậu núi thấp phía tây: Gồm 02 xã Phước Bình và Phước Hoà. Khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, hơi thiếu ẩm. Lượng mưa trung bình 1500 - 2000 mm, mùa mưa từ tháng V - XI (07 tháng). Nhiệt độ trung bình 22 – 250 C.

Tiểu vùng khí hậu trung du và đồng bằng phía đông: Gồm 07 xã còn lại. Khí hậu nhiệt đới - gió mùa, bán khô hạn. Nhiệt độ trung bình 270 C. Lượng mưa trung bình 800 - 1000 mm. Mùa mưa tập trung chủ yếu vào 3 tháng (từ tháng IX - XI). Mùa khô từ tháng XII - VIII, nắng nóng, khô hạn khắc nghiệt.

* Thuỷ văn

Hệ thống sông suối trên địa bàn huyện Bác Ái nhiều và phân bố khá đều về không gian. Các sông chính ở huyện Bác Ái bao gồm:

Sông Cái: Bắt nguồn từ tỉnh Khánh Hoà chạy theo hướng nam qua huyện Ninh Sơn, TP. Phan Rang - Tháp Chàm rồi đổ ra biển Đông. Đây là con sông lớn nhất huyện Bác Ái và tỉnh Ninh Thuận, nguồn nước dồi dào quanh năm và là nguồn cung cấp nước chủ yếu để tưới cho cây trồng. Sông có chiều dài 119km, tổng diện tích lưu vực 3.000 km2.

Sông Sắt: Là sông lớn thứ hai trong huyện Bác Ái, là phụ lưu chính của sông Cái, chiều dài sông 32 km, diện tích lưu vực 411 km2. Sông chảy theo hướng đông - tây rồi đổ vào sông Cái.

Sông Trà Co: Là sông lớn thứ ba trong huyện Bác Ái, là phụ lưu của sông Sắt, chiều dài sông chính 25 km, diện tích lưu vực 154 km2. Sông chảy theo hướng bắc - nam rồi đổ vào sông Sắt.

Ngày đăng: 23/04/2023